Thiết kế các module xử lý nước thải y tế với công suất nhỏ, vừa và lớn.

GVHD : GVC. TS Nguyễn Thị Phương Loan
SVTH: Tạ Tuấn Anh & Nguyễn Anh Tuấn
Đề tài:
 
THIẾT KẾ CÁC MODULE XỬ LÝ NƯỚC THẢI Y TẾ VỚI CÔNG SUẤT NHỎ, VỪA VÀ LỚN TẠI TP. HCM



1. TỔNG QUAN VỀ CÁC LOẠI HÌNH Y TẾ TẠI TP. HCM

1.1  Điều kiện tự nhiên và xã hội ở TP.HCM
  
            1.1.1      Vị trí địa lý

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong tọa độ địa lý khoảng 10o 10' – 10o 38’ vĩ độ Bắc và 1060 22'– 106054' kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Với tổng diện tích hơn 2.095 km2, thành phố được phân chia thành 19 quận và 5 huyện với 322 phường-xã, thị trấn. 

1.1.2 Địa hình, thổ nhưỡng

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 4 tiểu vùng địa hình:

- Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ cao trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò độ cao cao nhất tới 32m, như đồi Long Bình (quận 9).
- Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các quận 9, 8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ cao trung bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
- Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn. Vùng này có độ cao trung bình 5-10m.
Ðất đai Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trên hai tướng trầm tích-trầm tích Pleieixtoxen và trầm tích Holoxen. 
- Trầm tích Pleixtoxen (trầm tích phù sa cổ): chiếm hầu hết phần phía Bắc, Tây Bắc và Ðông Bắc thành phố, gồm phần lớn các huyện Củ Chi, Hóc môn, Bắc Bình Chánh, quận Thủ Ðức, Bắc-Ðông Bắc quận 9 và đại bộ phận khu vực nội thành cũ.

Ðiểm chung của tướng trầm tích này, thường là địa hình đồi gò hoặc lượn sóng, cao từ 20-25m và xuống tới 3-4m, mặt nghiêng về hướng Ðông Nam. Dưới tác động tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên như sinh vật, khí hậu, thời gian và hoạt động của con người, qua quá trình xói mòn và rữa trôi..., trầm tích phù sa cổ đã phát triển thành nhóm đất mang những đặc trưng riêng. Nhóm đất xám, với qui mô hơn 45.000 ha, tức chiếm tỷ lệ 23,4% diện tích đất thành phố.

Ở thành phố Hồ Chí Minh, đất xám có ba loại: đất xám cao, có nơi bị bạc màu; đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và đất xám gley; trong đó, hai loại đầu chiếm phần lớn diện tích. Ðất xám nói chung có thành phần cơ giới chủ yếu là cát pha đến thịt nhẹ, khả năng giữ nước kém; mực nước ngầm tùy nơi và tùy mùa biến động sâu từ 1-2m đến 15m. Ðất chua, độ pH khoảng 4,0-5,0. Ðất xám tuy nghèo dinh dưỡng, nhưng đất có tầng dày, nên thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây trồng nông lâm nghiệp, có khả năng cho năng suất và hiệu qủa kinh tế cao, nếu áp dụng biện pháp luân canh, thâm canh tốt. Nền đất xám, phù hợp đối với sử dụng bố trí các công trình xây dựng cơ bản.

Trầm tích Holoxen (trầm tích phù sa trẻ): tại thành phố Hồ Chí Minh, trầm tích này có nhiều nguồn gốc-ven biển, vũng vịnh, sông biển, aluvi lòng sông và bãi bồi... nên đã hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa có diện tích 15.100 ha (7,8%), nhóm đất phèn 40.800 ha (21,2%) và đất phèn mặn (45.500 ha (23,6). Ngoài ra có một diện tích nhỏ khoảng hơn 400 ha (0,2%) là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò

            1.1.2      Khí hậu, thủy văn

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, thành phố Hồ Chí Minh có hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11 với lượng mưa bình quân hàng năm là 1.979 mm và mùa khô diễn ra từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với nhiệt độ trung bình hàng năm là 27,55 0C.
Về thủy văn, hầu hết các sông rạch Thành phố Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều thâm nhập sâu vào các kênh rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối với sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.
Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước cao nhất là tháng 10-11, thấp nhất là các tháng 6-7. Về mùa khô, lưu lượng của nguồn các sông nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm nhập trên sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu, có năm đến đến tận Thủ Dầu Một và trên sông Ðồng Nai đến Long Ðại. Mùa mưa lưu lượng của nguồn lớn, nên mặn bị đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bị pha loãng đi nhiều.

             1.1.3      Tình hình kinh tế, xã hội

Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số nhưng đã đóng góp 20,2% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự án đầu tư nước ngoài.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 7.123.340 người (theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2009), gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ; trong đó nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9%.

1.2  Quy mô các cơ sở y tế

            1.2.1      Quy mô nhỏ

Phục vụ quận, huyện có số dân nhỏ hơn 150 000 người.
Bệnh viện đa khoa khoa hạng III, quy mô từ 50 – 100 giường bệnh

            1.2.2      Quy mô vừa

Phục vụ quận, huyện có số dân nhỏ hơn 150 000 người trở lên
Bệnh viện đa khoa khoa hạng III, quy mô từ 100 – 150 giường bệnh.

            1.2.3      Quy mô lớn

Phục vụ quận, huyện có số dân lớn hơn 150 000 người.
Bệnh viện đa khoa khoa hạng III, quy mô từ 150 – 200 giường bệnh.

1.3  Hiện trạng môi trường tại các cơ sở y tế

            1.3.1      Mầm bệnh từ nước thải y tế

TP Hồ Chí Minh hiện có 107 bệnh viện, không chỉ đáp ứng nhu cầu khám và điều trị của người dân thành phố mà còn cho 20 tỉnh, thành phía Nam, chính vì thế, lượng bệnh nhân được tiếp nhận mỗi ngày tại các bệnh viện này không hề nhỏ.
Nước thải y tế được xếp vào danh mục chất thải nguy hại nhất vì nó ẩn chứa nhiều loại vi rút, vi khuẩn gây bệnh. Ông Nguyễn Tấn Phong, Phó trưởng khoa Môi trường, Trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh, cho biết: “Trong nước thải bệnh viện có 20% chất thải nguy hại, nếu không được xử lý triệt để sẽ là nguy cơ lớn cho môi trường, nhất là các phế phẩm thuốc, các dung môi hóa học... Bên cạnh đó, chất thải từ phẫu thuật, dịch tiết, máu, mủ, đờm, phân của người bệnh... có hàm lượng hữu cơ cao, phân hủy nhanh nếu không được xử lý kịp thời thì không chỉ gây bệnh mà còn gây ô nhiễm”.

            1.3.2      Các bệnh viện ở TP.HCM chưa có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn

Cũng theo ông Phong, hiện hệ thống xử lý nước thải của một số bệnh viện trên địa bàn TP Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp lắng lọc qua 3 tầng nên chỉ lọc được vi trùng thương hàn, tả mà không xử lý được vi khuẩn yếm khí. Mặc dù nhiều bệnh viện cũng xây dựng hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn nhưng cũng chỉ xử lý được về mặt vi sinh, còn chỉ tiêu về ammoniac lại gấp đôi so với quy định. Nếu chất này được thải nhiều ra môi trường sẽ gây hiện tượng phú dưỡng hóa, thúc đẩy rong, tảo phát triển khiến một số loại thủy sản chết.

1.4        Tổng quan về thành phần nước thải y tế

            1.4.1      Nguồn gốc nước thải bệnh viện

Từ nhiều nguồn:
- Sinh hoạt của bệnh nhân, người nuôi bệnh nhân, cán bộ và công nhân viên của bệnh viện;
-  Pha chế thuốc;
-  Tẩy khuẩn;
-  Lau chùi phòng làm việc;
-  Phòng bệnh nhân…

            1.4.2      Thành phần, tính chất nước thải bệnh viện

Các thành phần chính gây ô nhiễm môi trường do nước thải bệnh viện gây ra là:
-  Các chất hữu cơ;
-  Các chất dinh dưỡng của ni-tơ (N), phốt-pho (P);
-  Các chất rắn lơ lửng;
-  Các vi trùng, vi khuẩn gây bệnh: Salmonella, tụ cầu, liên cầu, virus đường tiêu hóa, bại liệt, các loại kí sinh trùng, amip, nấm…
 Các mầm bệnh sinh học khác trong máu, mủ, dịch, đờm, phân của người bệnh;
-  Các loại hóa chất độc hại từ cơ thể và chế phẩm điều trị, thậm chí cả chất phóng xạ.

            1.4.3      Tính chất nước thải bệnh viện

Theo kết quả phân tích của các cơ quan chức năng, 80% nước thải từ bệnh viện là nước thải bình thường (tương tự nước thải sinh hoạt) chỉ có 20% là những chất thải nguy hại bao gồm chất thải nhiễm khuẩn từ các bệnh nhân, các sản phẩm của máu, các mẫu chẩn đoán bị hủy, hóa chất phát sinh từ trong quá trình giải phẫu, lọc máu, hút máu, bảo quản các mẫu xét nghiệm, khử khuẩn. Với 20% chất thải nguy hại này cũng đủ để các vi trùng gây bệnh lây lan ra môi trường xung quanh. Đặc biệt, nếu các loại thuốc điều trị bệnh ung thư hoặc các sản phẩm chuyển hóa của chúng… không được xử lý‎ đúng mà đã xả thải ra bên ngoài sẽ có khả năng gây quái thai, ung thư cho những người tiếp xúc với chúng.

2. CÁC CƠ SỞ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ VIỆC THIẾT KẾ

2.1 Tổng quan về các phương pháp xử lý NT

2.1.1 Phương pháp cơ học

Để tách các hạt lơ lửng ra khỏi nước thải, thường người ta s dng các quá trình thuỷ cơ. Vic la chọn phương pháp    tu thuộc vào kích thước hạt, tính chất hoá lý, nồng đ hạt lửng, lưu lượng nước thi mc đ làm sch cần thiết.
Phương pháp xử học th loại bỏ được đến 60% các tạp chất không hoà tan có trong nước thải và gim BOD đến 30%. Đ ng hiệu suất của các công trình xử lý cơ hc có th ng biện pháp m thoáng sơ bộ… Hiệu quả xử lý có th lên tới 75% chất lng và 40% ÷ 50% BOD.
Quá trình x học hay còn gọi quá trình tiền xử thường được áp dụng ở giai đoạn đầu của qui trình x lý. Tùy vào ch thước, tính chất hóa lí, hàm lượng cn lơ lng, lưu lượng nước thải mc độ làm sạch cần thiết ta s dụng một trong các quá trình sau: lc qua song chắn rác hoc lưới chắn rác, lắng dưới tác dụng của lc li tâm, trọng trưng lc. Các công trình x lý: song chắn rác, b lắng cát, bể tách du, bể lắng (đợt 1), lc…

Ưu đim: đơn giản, chi phí thấp, hiệu quả xử lý chất lng cao.

  Bảng 1: Các ng trình x lý cơ học

Công trình
Áp dụng
Song chắn rác
Tách các cht rắn thô và th lắng.
Lưới chắn rác
Tách các cht rắn ch thước nhỏ hơn.
Nghiền rác
Nghiền các chất rắn t đến kích thước nh hơn, đồng nhất.
Bể điều hòa
Điều hòa lưu lượng và nồng độ (ti trọng BOD, SS)
Khuy trộn
Khuy trộn hóa cht chất k với nước thải, giữ cặn lắng
trạng thái lng.
Tạo bông
Giúp cho việc tập hp các hạt cặn nh thành các hạt cặn
lớn hơn để thể tách ra bằng lắng trọng lc.
Lắng
Tách các cặn lắng nén bùn.
Tuyển nổi
Tách các hạt cặn nh các hạt cn t trọng xấp xỉ t
trọng của nưc, hoặc s dụng để nén bùn sinh học.
Lọc
Tách các hạt cặn còn li sau xử sinh học, a học.
Màng lọc
Tương tự như quá trình lọc. Tách tảo từ nước thải sau hồ ổn định.
Vận chuyển khí
Bổ sung và tách khí.

2.1.2 Phương pháp hoá học

Da vào các phn ng hóa học gia các chất ô nhim hóa chất thêm vào.
Các phương pháp    lý hóa học gm có: oxy hóa khử, trung hòa - kết tủa hoc phản ng phân hy các chất độc hại.

 Bảng 2: Áp dng các quá trình hoá học trong x nước thải (Metcalf & Eddy,
 1991)

Quá trình
Áp dụng
Trung hoà
Đưa pH của nước thi về khong 6,5 8,5 thích hợp cho
công đoạn xử tiếp theo.
Kết tủa
Tách phospho nâng cao hiệu qu của vic tách cặn lơ
lng bể lắng đợt 1.
Hấp phụ
Tách các chất hu không được x bằng phương pháp
hoá học thông thường hoặc bng phương pháp sinh học. Nó cũng được sử dụng để tách kim loại nặng, khử Chlorine của nước thi trước khi xả vào ngun.
Khử trùng bằng Chlorine
Phá hu chọn lọc các vi sinh vật gây bệnh. Chlorine loại
hoá chất được sử dụng rộng rãi nht.
Khử Chlorine
Tách lượng chlor còn lại sau quá trình chlor hoá.
Khử        trùng        bng
ClO2/BrCl2/Ozone/UV
Phá hu chọn lọc các vi sinh vật gây bệnh.

Ưu điểm: hiệu quả xử cao, thường được dùng trong các h thống xử nước khép kín.
Nhược đim: chi phí vận hành cao, không thích hợp cho các h thống xử
nước thải quy mô ln.

2.1.3 Phương pháp hoá lý

Áp dụng các quá trình vật hóa học để đưa vào nước thải cht phản ng nào đó để gây tác đng đến các chất ô nhim nhm biến đổi hóa học, tạo thành các chất khác dưới dng cặn hoặc chất hòa tan nhưng không độc hại hoặc không gây ô nhim môi trường.
Các phương pháp hóa bao gồm : keo tụ, tạo bông, tuyển ni, trao đổi ion, đông tụ, hp phụ, thm lọc ngược và siêu lc…
Giai đoạn x hóa lý th giai đoạn xử độc lập hoặc xử cùng với các phương pháp học, hóa học, sinh học.

2.1.4 Phương pháp sinh học

Xử bằng phương pháp sinh học việc sử dụng khả năng sng hoạt động của vi sinh vt để khoáng hoá các chất bẩn hu trong nước thải thành các chất vô cơ, các chất khí đơn giản nước. Các vi sinh vật sử dụng mt số hợp chất hu mt số khoáng cht làm nguồn dinh dưng và tạo ra năng lượng. Trong quá trình dinh dưỡng chúng nhận được các chất làm vt liệu xây dựng tế bào, sinh trưởng sinh sản nên khối lưng sinh khối được tăng lên.
Phương pháp sinh học thường được sử dụng đ làm sạch hoàn toàn các loại nước thải chứa các chất hu hòa tan hoặc các chất phân tán nhỏ, keo. Do vy, phương pháp này thưng dùng sau khi loại các tạp chất phân tán thô ra khỏi nước thải bằng các quá trình đã trình bày phần trên. Đối vi các chất cha trong nước thải thì phương pháp này dùng đ khử sulfide, muối amoni, nitrate tc các chất chưa bị oxy hóa hoàn toàn. Sản phm cuối cùng của quá trình phân hy sinh hóa các chất bẩn s là: khí CO2, N2, nước, ion sulfate, sinh khối .... Cho đến nay, người ta đã biết nhiều loại vi sinh vật th phân hy tất c các chất hu trong thiên nhiên và rất nhiều chất hữu cơ tổng hợp nhân tạo.
Giải pháp x bằng biện pháp sinh học th được xem tốt nht trong các
phương pháp trên vi các lí do sau:
+   Chi phí thp
+    thể xử được độc t
+   Xử được N-NH3
 Tính ổn đnh cao.

  Điều kiện nước thải đưc phép xử sinh học:

Nước thải phải môi trường sống của quần thể vi sinh vật phân hu các chất hu cơ có trong nước thi. Nghĩa nước thi phải tho các điều kiện sau:
+    Không chất độc làm chết hoặc c chế hệ vi sinh vật trong nước thải. Trong số các chất độc phải chú ý đến các kim loại nng. Theo mc độ độc hại của các kim loại, sp xếp theo th tự là:
Sb > Ag > Cu > Hg > Co > Ni > Pb > Cr3+ > Cd > Zn > Fe
+   Muối của các kim loại này nh hưởng nhiều đến đời sống của các vi sinh vật, nếu quá nồng đ cho phép, các vi sinh vật không thể sinh trưởng được và có thể bị chết.
+   Chất hu cơ trong nước thải phải chất dinh dưỡng nguồn C năng lượng cho vi sinh vật. Các hợp chất hydratcacbon, protein, lipid hoà tan thường là chất dinh dưỡng, rất tốt cho vi sinh vật.
+    Nước thải đưa vào    sinh học 2 thông s đặc trưng là BOD và COD. Tỉ số của 2 thông s này phải COD/BOD ≤ 2 hoặc BOD/COD ≥ 0.5 thì mói có thể đưa vào    sinh học (hiếu khí). Nếu COD lớn hơn BOD nhiu lần, trong đó nếu cellulose, hemicellulose, protein, tinh bột chưa tan t phi qua x lý sinh học kị khí.
 Nước thải khi đưa tới công trình x lý sinh hc cần tho:
+   Nước thải phi pH trong khong 6.5 8.5
+   Nhiệt độ nước thải trong khoảng từ 10 40 0C
+   Tổng hàm lượng các muối hoà tan không vượt quá 15 g/L.

2.2 Các công nghệ xử lý nước thải y tế đang áp dụng

2.2.1 Hồ sinh học

Cơ sở khoa học của phương pháp này là dựa vào khả năng tự làm sạch của nước, chủ yếu là vi sinh vật và các thủy sinh khác, các chất nhiễm bẩn bị phân hủy thành các chất khí và nước.Căn cứ theo đặc tính toàn tại và tuần hoàn của các vi sinh và sau đó là cơ chế xử lý‎ mà người ta phân biệt 3 loại hồ: Hồ kỵ khí, hồ hiếu-kỵ khí và hồ hiếu khí.

      ·      Hồ kị khí

Dùng để lắng và phân hủy cặn lắng bằng phương pháp sinh hóa tự nhiên dựa trên cơ sở sống và hoạt động của vi sinh kỵ khí.
Loại hồ này thường dùng để xử lý nước thải công nghiệp có độ nhiễm bẩn lớn, ít dùng để xử lý nước thải sinh hoạt vì nó gây mùi khó chịu. Hồ kỵ khí phải đặt cách xa nhà ở và xí nghiệp thực phẩm 1,5-2km.
Để duy trì điều kiện kỵ khí và giữ ấm cho hồ trong mùa đông thì chiều sâu hồ phải lớn, thường là 2,4-3,6m.
Hồ có 2 ngăn làm việc để dự phòng khi xả bùn trong hồ.
Cửa xả nước vào hồ phải đặt chìm, đảm bảo việc phân bố cặn lắng đồng đều trong hồ.
Cửa tháo nước ra khỏi hồ thiết kế theo kiểu thu nước bề mặt và có tấm ngăn để bùn không thoát ra cùng với nước.

      · Hồ hiếu-kỵ khí (Facultativ)

Hồ facultativ là loại hồ thường gặp trong tự nhiên, nó đước sử dụng rộng rãi nhất trong các hồ sinh học.
Trong hồ này xảy ra 2 quá trình song song: quá trình oxy hóa hiếu khí chất nhiễm bẩn hữu cơ và quá trình phân hủy metan cặn lắng.
Đặc điểm của loại hồ này xét theo chiều sâu của nó có thể chia ra 3 vùng: lớp trên là vùng hiếu khí, lớp giữa là vùng trung gian, còn lớp dưới là vùng kỵ khí.
Nguồn oxy cần thiết cho quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong hồ chủ yếu nhờ quang hợp của rong tảo dưới tác dụng của bức xạ mặt trời và khuếch tán qua mặt nước dưới tác dụng của sóng gió, hàm lượng oxy hòa tan vào ban ngày nhiều hơn ban đêm. Do sự xâm nhập của oxy hòa tan chỉ có hiệu quả ở độ sâu 1m nên nguồn oxy hòa tan chủ yếu cũng chỉ ở lớp nước phía trên.
Quá trình phân huỷ kỵ khí lớp bùn ở đáy hồ phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ. Quá trình này làm giảm tải trọng hữu cơ trong hồ và sinh ra các sản phẩm lên men đưa vào trong nước.
Trong hồ thường hình thành tầng phân cách nhiệt: vùng nước phía trên nóng ấm hơn vùng nước phía. Ở giữa là tầng phân cách đôi khi cũng có lợi. Đó là trường hợp những ngày hè do sự quang hợp của tảo, tiêu thụ nhiều CO2 làm cho pH của nước hồ tăng lên, có khi tới 9,8 (vượt quá tiêu chuẩn tối ưu của vi khuẩn) khi đó tốt nhất là không nên xáo trộn hồ để cho các vi khuẩn ở đáy được che chở bởi tầng phân cách.
Nhìn chung tầng phân cách nhiệt là không có lợi, bởi vì trong giai đoạn phân tầng các loài tảo sẽ tập trung thành một lớp dày ở phía trên tầng phân cách. Tảo sẽ chết làm cho các vi khuẩn thiều oxy và hồ bị quá tải các chất hữu cơ. Trong trường hợp này sự xáo trộn là cần thiết để tảo phân tán tránh sự tích tụ.
Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng tới sự xáo trộn là gió và nhiệt độ:
Khi gió thổi sẽ gây sóng mặt nước gây nên sự xáo trộn. Hồ có diện tích bề mặt lớn thì sự xáo trộn bằng gió tốt hơn hồ có diện tích bề mặt bể.
Ban ngày nhiệt độ của lớp nước phía trên cao hơn nhiệt độ của lớp nước phía dưới. Do sự chênh lệch nhiệt độ mà tải trọng của nước cũng chênh lệch tạo nên sự đối lưu nước ở trong hồ theo chiều đứng.
Nếu gió xáo trộn theo hướng hai chiều (chiều ngang và chiều đứng) thì sự chênh  lệch nhiệt độ tạo nên xáo trộn chỉ theo một chiều thẳng đứng. Kết hợp giữa sức gió và chênh lệch nhiệt độ tạo nên sự xáo trộn toàn phần.
Chiều sâu của hồ ảnh hưởng lớn đến sự xáo trộn, tới các quá trình oxy hóa và phân hủy trong hồ. Chiều sâu trong hồ thường lấy vào khoảng 0,9-1,5m.
Tỷ lệ chiều dài, chiều rộng hồ thường lấy bằng 1:1 hoặc 2:1. Ở những vùng có nhiều gió nên làm hồ có diện tích rộng, còn ở vùng ít gió nên àm hồ có nhiều ngăn.Nếu đất đáy hồ dễ thấm nước thì phải phủ lớp đất xét dày 15cm. Bờ hồ có đáy dốc, nên trồng cỏ trên bờ hồ.

     ·      Hồ hiếu khí

Hồ hiếu khí là hồ có quá trình oxy hóa các chất hữu cơ nhờ các vi sinh vật hiếu khí. Loại hồ này được phân thành 2 nhóm:
Hồ làm thoáng tự nhiên: oxy cung cấp cho quá trình oxy hóa chủ yếu do sự khuếch tán không khí qua mặt nước và quá trình quang hợp của các thực vật nước như rong tảo. Để đảm bảo cho ánh sáng có thể xuyên qua, chiều sâu của hồ phải bé khoảng 30-40cm. Sức chứa tiêu chuẩn lấy theo BOD khoảng 250-300 kg/ha.ngày. Thời gian nước lưu trong hồ khoảng 3-12 ngày.
Do độ sâu bé, thời gian lưu nước dài nên diện tích hồ lớn. Vì thế nó chỉ hợp l‎y về kinh tế khi kết hợp việc xử lý nước thải với việc nuôi trồng thủy sản cho mực đích chăn nuôi và công nghiệp.
Hồ hiếu khí làm thoáng bằng nhân tạo: nguồn oxy cung cấp cho quá trình sinh hóa là bằng các thiết bị như bơm khí nén hoặc máy khuấy cơ học. Vì được tiếp khí nhân tạo nên chiều sâu của hồ có thể từ 2-4,5m. Sức chứa tiêu chuẩn khoảng 400 kg/ha.ngày. Thời gian nước lưu trong hồ khoảng 1-3 ngày.
Hồ hiếu khí làm thoáng nhân tạo, do chiều sâu hồ lớn, việc làm thoáng cũng khó đảm bảo toàn phần nên chúng làm việc như hồ hiếu-kỵ khí.

2.2.2 Bể phản ứng sinh học hiếu khí – Aeroten

Bể phản ứng sinh học hiếu khí – Aeroten là công trình bê tông cốt thép hình khối chữ nhật hoặc hình tròn, cũng có trừơng hợp người ta chế tạo các Aerotan bằng sắt thép hình khối trụ. Thông dụng nhất hiện nay là các Aeroten hình bể khối chữ nhật. Nước thải chảy qua suốt chiều dài của bể và được sục khí, khuấy nhằm tăng cường lượng khí oxi hòa tan và tăng cường quá trình oxi hóa chất bẩn hữu cơ có trong nước.
Nước thải sau khi đã được xử lý sơ bộ còn chứa phần lớn các chất hữu cơ ở dạng hòa tan cùng các chất lơ lửng đi vào Aeroten. Các chất lơ lửng này là một số chất rắn và có thể là các chất hữu cơ chưa phải  là dạng hòa tan. Các chất lơ lửng làm nơi vi khuẩn bám vào để cư trú, sinh sản và phát triển, dần thành các hạt cặn bông. Các hạt này dần dần to và lơ lửng trong nước. Chính vì vậy xử lý nước thải ở Aeroten được gọi là quá trình xử lý với sinh vật lơ lửng của quần thể vi sinh vật. Các bông cặn này cũng chính là bùn hoạt tính.
Bùn hoạt tính là loại bùn xốp chứa nhiều vi sinh vật có khả năng oxi hóa và khoáng hóa các chất hữu cơ chứa trong nước thải.
Để giữ cho bùn hoạt tính ở trạng thái lơ lửng và để đảm bảo oxi dung cho quá trình oxi hóa các chất hữu cơ thì phải luôn luôn đảm bảo việc thoáng gió. Số lượng bùn tuần hoàn và số lượng không khí cần cấp lấy phụ thuộc vào độ ẩm vào mức độ yêu cầu xử lý nước thải.Thời gian nước lưu trong bể aeroten không lâu quá 12 giờ (thường là 4 -8 giờ).
Nước thải với bùn hoạt tính tuần hoàn sau khi qua bể aeroten cho qua bể lắng đợt 2. Ở đây bùn lắng một phần đưa trở lại Aeroten, phần khác đưa tới bể nén bùn.
Do kết quả của việc sinh sôi nảy nở các vi sinh vật cũng như việc tách các chất bẩn ra khỏi nước thải mà số lượng bùn hoạt tính ngày một gia tăng. Số lượng bùn thừa chẳng những không giúp ích cho việc xử lý nước thải, ngược lại, nếu không lấy đi thì còn là một trở ngại lớn. Độ ẩm của bùn hoạt tính khoảng 98-99%, trước khi đưa lên bể metan cần làm giảm thể tích.
Quá trình oxi hóa các chất bẩn hữu cơ xảy ra trong aeroten qua ba giai đoạn:

-         Giai đoạn thứ nhất: tốc độ oxi hóa bằng tốc độ tiêu thụ oxi. Ở giai đoạn này bùn hoạt tính hình thành và phát triển. Hàm lượng oxi cần cho vi sinh vật sinh trưởng, đặc biệt ở thời gian đầu tiên thức ăn dinh dưỡng trong nước thải rất phong phú, lượng sinh khối trong thời gian này rất. Sau khi vi sinh vật thích nghi với môi trường, chúng sinh trưởng rất mạnh theo cấp số nhân. Vì vậy, lượng tiêu thụ oxi tăng cao dần.
-         Gian đoạn hai: vi sinh vật phát triển ổn định và tốc độ tiêu thụ oxi cũng ở mức gần như ít thay đổi. Chính ở giai đoạn này các chất bẩn hữu cơ bị phân hủy nhiều nhất.
-         Giai đoạn thứ ba: sau một thời gian khá dài tốc độ oxi hóa cầm chừng (hầu như ít thay đổi) và có chiều hướng giảm, lại thấy tốc độ tiêu thụ oxi tăng lên. Đây là giai đoạn nitrat hóa các muối amon.
Sau cùng, nhu cầu oxi lại giảm và cần phải kết thúc quá trình làm việc của aeroten (làm việc theo mẻ). Ở đây cần lưu ý rằng, sau khi oxi hóa được 80-95% BOD trong nước thải, nếu không khuấy đảo hoặc thổi khí, bùn hoạt tính sẽ lắng xuống đáy, cần phải lấy bùn cặn ra khỏi nước. Nếu không kịp thời tách bùn, nước sẽ bị ô nhiễm thứ cấp, nghĩa là sinh khối vi sinh vật trong bùn (chiếm tới 70% khối lượng cặn bùn) sẽ bị tự phân. Tế bào vi khuẩn có hàm lượng protein rất cao (60-80% so với chất khô), ngoài ra còn có các hợp chất chứa chất béo, hidratcacbon, các chất khoáng…khi bị tự phân sẽ làm ô nhiễm nguồn nước.

2.2.3 Công nghệ lọc sinh học nhỏ giọt- Biofilter

Lọc nhỏ giọt là loại bể lọc sinh học với vật liệu tiếp xúc không ngập nước.
Biôphin nhỏ giọt dung để xử lý sinh hóa nước thải hoàn toàn với hàm lượng BOD của nước sau khi xử lý đạt 15 mg/l.
Bể biôphin xây dựng dưới dạng hình tròn hay hình chữ nhật có tường đặc và đáy kép. Đáy trên là tấm đan đỡ lớp vật liệu lọc, đáy dưới liền khối không thấm nước. Chiều cao giữa hai lớp đáy lấy khoảng 0,4-0,6 m, độ dốc hướng về máng thu I >= 0,01. Dộ dốc theo chiều dài của máng thu lấy theo kết cấu, nhưng không được nhỏ hơn 0,005. Tường bể làm cao hơn lớp vật liệu lọc 0,5 m.
Đặc điểm riêng của bể biophin nhỏ giọt là kích thước của vật liệu lọc không lớn hơn 25-30 mm và tải trọng tưới nước nhỏ 0,5-1,0 m3/(m3.VLL)
Các vật liệu lọc có độ rỗng và diện tích mặt tiếp xúc trong một đơn vị thể tích là lớn nhất trong điều kiện có thể. Nước đến lớp vật liệu lọc chia thành các dòng hoặc hạt nhỏ chảy thành lớp mỏng qua khe hở của vật liệu, đồng thời tiếp xúc với màng sinh học ở trên bề mặt vật liệu và được làm do vi sinh vật của màng phân hủy hiếu khí và kị khí các chất hữu cơ có trong nước. Các chất hữu cơ phân hủy hiếu khí sinh ra CO2 và nước, phân hủy kị khí sinh ra CH4 và CO2 làm tróc màng ra khỏi vật liệu mang, bị nước cuốn theo. Trên mặt giá mang là vật liệu lọc lại hình thành lớp màng mới. Hiện tượng này được lặp đi lặp lại nhiều lần. Kết quả là BOD của nước thải bị vi sinh vật sử dụng làm chất dinh dưỡng và bị phân hủy kị khí cũng như hiếu khí: nước thải được làm sạch.
Nước thải trước khi đưa vào xử lý ở lọc phun (nhỏ giọt) cần phải qua xử lý sơ bộ để tránh tắc nghẽn các khe trong vật liệu. Nước sau khi xử lý ở lọc sinh học thường nhiều chất lơ lửng do các mảnh vỡ của màng sinh học cuốn theo, vì vậy cần phải đưa vào lắng 2 và lưu ở đây thời gian thích hợp để lắng cặn. Trong trường hợp này, khác với nước ra ở bể aeroten: nước ra khỏi lọc sinh học thường ít bùn cặn hơn ra từ aeroten. Nồng độ bùn cặn ở đây thường nhỏ hơn 500 mg/l, không xảy ra hiện tượng lắng hạn chế. Tải trọng bề mặt của lắng 2 sau lọc phun vào khoảng 16-25 m3/m2.ngày.

2.2.4 Công nghệ xử lý nước thải bệnh viện theo nguyên lý hợp khối

Nguyên lý hợp khối cho phép thực hiện kết hợp nhiều quá trình cơ bản xử lý nước thải đã biết trong không gian thiết bị của mỗi mô-đun để tăng hiệu quả và giảm chi phí vận hành xử lý nước thải. Thiết bị xử lý hợp khối cùng một lúc thực hiện đồng thời quá trình xử lý sinh học thiếu khí và hiếu khí. Việc kết hợp đa dạng này sẽ tạo mật độ màng vi sinh tối đa mà không gây tắc các lớp đệm, đồng thời thực hiện oxy hóa mạnh và triệt để các chất hữu cơ trong nước thải. Thiết bị hợp khối còn áp dụng phương pháp lắng có lớp bản mỏng (lamen) cho phép tăng bề mặt lắng và rút ngắn thời gian lưu.

3.  PHƯƠNG PHÁP KHẢO SÁT VÀ THIẾT KẾ CHO TỪNG LOẠI MODULE

3.1 Phương pháp khảo sát

3.1.1 Nguyên tắc hoạt động

Nguyên lý hợp khối cho phép thực hiện kết hợp nhiều quá trình cơ bản xử lý nước thải đã biết trong không gian thiết bị của mỗi mô-đun để tăng hiệu quả và giảm chi phí vận hành xử lý nước thải. Thiết bị xử lý hợp khối cùng một lúc thực hiện đồng thời quá trình xử lý sinh học thiếu khí và hiếu khí. Việc kết hợp đa dạng này sẽ tạo mật độ màng vi sinh tối đa mà không gây tắc các lớp đệm, đồng thời thực hiện oxy hóa mạnh và triệt để các chất hữu cơ trong nước thải. Thiết bị hợp khối còn áp dụng phương pháp lắng có lớp bản mỏng (lamen) cho phép tăng bề mặt lắng và rút ngắn thời gian lưu.

3.1.2 Các hóa chất phụ trợ đi kèm

Đi kèm với giải pháp công nghệ hợp khối này có các hóa chất phụ trợ gồm: chất keo tụ PACN-95 và chế phẩm vi sinh DW-97-H giúp nâng cao hiệu suất xử lý, tăng công suất thiết bị. Chế phẩm DW-97-H là tổ hợp của các vi sinh vật hữu hiệu (nấm sợi, nấm men, xạ khuẩn và vi khuẩn), các enzym thủy phân ngoại bào (amilaz, cellulaz, proteaz) các thành phần dinh dưỡng và một số hoạt chất sinh học; sẽ làm phân giải (thủy phân) các chất hữu cơ từ trong bể phốt của bệnh viện nhanh hơn ( tốc độ phân hủy tăng 7 - 9 lần và thủy phân nhanh các cao phân tử khó tan, khó tiêu thành các phân tử dễ tan, dễ tiêu), giảm được sự quá tải của bể phốt, giảm kích thước thiết bị, tiết kiệm chi phí chế tạo và chi phí vận hành, cũng như diện tích mặt bằng cho hệ thống xử lý. Chất keo tụ PACN-95 khi hòa tan vào trong nước sẽ tạo màng hạt keo, liên kết với cặn bẩn (bùn vô cơ hoặc bùn hoạt tính tại bể lắng) thành các bông cặn lớn và tự lắng với tốc độ lắng cặn nhanh; nhờ đó, giảm được kích thước thiết bị lắng (bể lắng) đáng kể mà vẫn đảm bảo tiêu chuẩn đầu ra của nước thải

3.1.3 Ưu, nhược điểm của công nghệ
Ưu điểm của công nghệ
-  Đảm bảo loại trừ các chất gây ô nhiễm xuống dưới tiêu chuẩn cho phép trước khi thải ra môi trường.
- Tiết kiệm chi phí đầu tư do giảm thiểu được phần đầu tư xây dựng.
-  Dễ quản lý vận hành.
-  Tiết kiệm diện tích đất xây dựng.
-  Có thể kiểm soát các ô nhiễm thứ cấp như tiếng ồn và mùi hôi.
Nhược điểm của công nghệ
-  Chi phí đầu tư ban đầu cao.

3.2 Các loại module XLNT đang được sử dụng

3.2.1 Công nghệ xử lý nước thải bệnh viện V-69

Công nghệ này được Trung tâm CTC thiết kế xây dựng từ năm 1997 tại Bệnh viện V-69 thuộc Bộ tư lệnh lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (Viện nghiên cứu và bảo quản thi thể Bác Hồ). Từ đó đến nay V-69 được phát triển và hoàn thiện nhiều lần. Chức năng của các thiết bị xử lý khối kiểu V-69 là xử lý sinh học hiếu khí, lắng bậc 2 kiểu lamen và khử trùng nước thải. Ưu điểm của thiết bị là tăng khả năng tiếp xúc của nước thải với vi sinh vật và oxy có trong nước nhờ lớp đệm vi sinh có độ rỗng cao, bề mặt riêng lớn; quá trình trao đổi chất và oxy hóa đạt hiệu quả rất cao.

3.2.2 Công nghệ xử lý nước thải bệnh viện CN-2000

Trên nguyên lý của thiết bị xử lý nước thải V-69, thiết bị xử lý nước thải CN-2000 được thiết kế chế tạo theo dạng tháp sinh học với quá trình cấp khí và không cấp khí đan xen nhau để tăng khả năng khử nitơ. Thiết bị CN-2000 có công suất 120 - 150 m3/ngày đêm (trung bình 20 giờ), được ứng dụng để xử lý các nguồn nước thải có ô nhiễm hữu cơ và nitơ. Các thông số nước thải đầu vào: BOD5/COD ³ 0,5, BOD £ 350 mg/l, nồng độ các độc tố có hại cho các quá trình xử lý bằng vi sinh đạt mức cho phép.

3.3 Tính toán thiết kế chi tiết cho các loại hình module vừa, nhỏ và lớn
3.3.1 Xác định Q, thành phần & đặc tính NT
3.3.2 Phân tích, lựa chọn loại hình module XLNT phù hợp
3.3.3 Tính toán các công trình thuộc module
3.3.4 Tính toán kinh tế
3.3.5 Xác định nguyên lý vận hành, bảo trì

4. THIẾT KẾ HOÀN THIỆN VÀ TỐI ƯU HÓA CHI PHÍ ĐẦU TƯ CHO CÁC MODULE

4.1 So sánh chi phí đầu tư
4.1.1 Chi phí xây dựng và thiết bị
4.1.2 Chi phí hóa chất, nhân công và vận hành
4.2 Rèn luyện kỹ năng
4.2.1 Bồi dưỡng khả năng giao tiếp, tiếp cận và trao đổi thông tin
4.2.2 Rèn luyện tính kỷ luật, uy tín và các kỹ năng khác trong MT làm việc thực sự
4.3 Trau dồi kinh nghiệm
4.3.1 Ứng dụng công nghệ tiên tiến
4.3.2 Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, chuyển giao CN
4.4 Củng cố kiến thức
4.4.1 Vận hành các loại hình module
4.4.2 Sự cố và biện pháp khắc phục

Share this article :

Đăng nhận xét

 
Thông Tin : Khoa Công Nghệ Và Quản Lí Môi Trường | Lớp K15M | NGUYỄN TUẤN DUY - TẠ TUẤN ANH - ĐOÀN QUANG MINH
Copyright © 2011. Công Nghệ Môi Trường K15M - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Website được thiết kế bởi NGUYỄN TUẤN DUY