GVHD : GVC. ThS Nguyễn Kim Thanh
SVTH: Bùi Quang Minh & Trần Phi Thuyền
LỜI MỞ ĐẦU
Thông
tin được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau, có thể là lời nói, văn bản, sơ đồ,
mô hình hoặc thậm chí là cử chỉ, biểu hiện bên ngoài. Thì mục tiêu của thông
tin là cung cấp kiến thức, hiểu biết, dữ liệu, thông báo, báo cáo,… chỉ ra nội
dung trao đổi giữa con người và môi trường. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó,
thông tin cần được sắp xếp, liên kết, truyền đạt, diễn giải một cách có hệ thống
để tạo được hiệu quả tối đa. Vì thế, hệ thống thông tin ra đời và được xem như
một công cụ hữu ích, đáp ứng nhu cầu của con người và xã hội.
Là
sinh viên chuyên ngành môi trường, hệ thống thông tin sẽ giúp ích trong việc
tìm kiếm thông tin (thông tin môi trường), phục vụ cho các đề tài nghiên cứu
khoa học hay đề tài tốt nghiệp của họ.
Để tìm hiểu kĩ hơn về những lợi ích đã nêu
trên, nhóm xin được phép trình bày một ví dụ về hệ thống thông tin phục vụ đề
tài thiết kế hệ thống thoát nước cho cơ sở
giết mổ gia súc Tân Phú Trung, Huyện Củ Chi, với
nội dung chính bao gồm phần sơ đồ hệ thống và phần thông tin. Dưới đây là phần
sơ đồ hệ thống, phần thông tin sẽ được trình bày rõ trong các chương kế tiếp.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GIẾT MỔ GIA SÚC VÀ CƠ SỞ GIẾT MỔ GIA SÚC TÂN PHÚ TRUNG
Tình hình giết mổ gia súc ở TP.HCM
được tổng hợp từ các số liêu thống kê do Chi cục thú y Thành phố Hồ Chí Minh
cung cấp và kết quả khảo sát, điều tra trực tiếp do nhóm nghiên cứu thuộc Viện
Kỹ thuật Nhiệt đới và bảo vệ môi trường ( VITTEP ), kết hợp với trung tâm kiểm
tra vệ sinh thú y Trung ương II tiến hành điều tra, khảo sát, phỏng vấn tại chỗ
24/39 cơ sở giết mổ gia súc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Phân loại cơ sở giết mổ
Có 3 nhóm tiêu chí chính để phân loại
các cơ sở giết mổ gia súc:
- Hình thức giết mổ: cơ khí hóa, thủ
công;
- Quy mô giết mổ: bao gồm công suất
thiết kế, công suất thực tế và hạ tần cơ sở;
- Thành phần kinh tế: Nhà nước, hợp
tác xã, cổ phần hóa hay tư nhân.
Các cơ sở giết mổ gia súc trên địa
bàn TP.HCM, dựa trên các tiêu chí chung ở trên, có thể phân chia các cơ sở giết
mổ gia súc thành 3 nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Cơ sở giết mổ (CSGM) hoàn thiện có một, hai hay ba dây chuyền giết mổ kiểu
công nghiệp với các kho lạnh và xưởng chế biến thịt do nhà nước hoặc tư nhân đầu
tư và quản lý. CSGM này hiện đại, đòi hỏi
chi phí đầu tư cao, đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh thú y, vệ sinh thực phẩm, điều
hành và kinh doanh tốt đem lại lợi nhuận cao.
Mô hình giết mổ này phục vụ thịt cho xuất khẩu, thịt chế biến, thịt tươi
cho các vùng đô thị phát triển. Tiêu biều cho mô hinh này ở TP.HCM là công ty
VISSAN.
Nhóm 2: CSGM kiểu hợp tác xã, nhà nước hoặc tư nhân đầu tư tập trung giết mổ bằng
các phương tiện ít nhiều cải tiến, trình độ công nhân chuyên nghiệp. Mô hình
này đại diện cho việc tập trung giết mổ, có ít nhiều cải tiến về dụng cụ hạ mổ
và phương tiện vận chuyển, được sự giám sát đầy đủ của các cơ quan thú y Nhà nước,
có thể có trang bị kho lạnh. Mô hình này có công suất giết mổ từ 50-1.500 con
heo/ngày. Nhược điểm của mô hình này là cường độ hạ thịt cao trong thời gian ngắn,
công nhân giết mổ và hạ thịt quá đông nguy cơ vấy nhiễm từ hoạt động giết mổ
tương đối lớn. Tiêu biểu cho mô hình này là công ty Nam Phong, công ty TABICO,
trung tâm giết mổ Bình Chánh.
Nhóm 3: CSGM tư nhân, giết mổ thủ công phục vụ thịt cho địa bàn hẹp. Phần lớn
các cơ sở còn lại trên địa bàn TP.HCM đều thuộc nhóm này.
Mặt dù các cơ sở giết mổ được chia
thành 3 nhóm chính như trên, nhưng xét về bản chất tất cả các cơ sở đều hoạt động
theo hình thức của nhóm 3. Ví dụ như, công ty Nam Phong, TABICO hay trung tâm
giết mổ Bình Chánh, mặc dù xét về tổng thể các đơn vị này thuộc nhóm 2, nhưng
thực tế nó bao gồm nhiều cơ sở nhỏ và mỗi
cơ sở lại hoạt động độc lập, riêng rẽ giống như một cơ sở giết mổ thuộc nhóm 3.
Điều này cho thấy một đặc thù của ngành giết mổ ở TP.HCM chủ yếu vẫn là giết mổ
thủ công, hoạt động dưới hình thức hoạt động của tư nhân là chính.
Ngoài ra, ta có thể dựa vào quy mô
công suất của cơ sở giết mổ có thể chia chúng thành 3 loại như sau:
- Loại 1: công suất giết mổ mỗi đêm
> 300 con heo;
- Loại 2: công suất giết mổ mỗi đêm từ
100 - 300con heo;
- Loại 3: công suất giết mổ mỗi đêm
< 100 con heo.
Các cơ sở giết mổ trên địa bàn TP.HCM
Theo số liệu thống kê của Chi cục
Thú y TP.HCM (12/2003), trên địa bàn thành phố có 39 cơ sở giết mổ gia súc có
giấy phép kinh doanh đang hoạt động , phân bố trên địa bạn các quạn huyện,
trong đó huyện Củ Chi là huyện có cơ sở giết mổ gia súc nhiều nhất (10 cơ sở).
Các cơ sở còn lại phân bố rải rác các quận huyện khác như huyện Hóc Môn (4 cơ sở),
quận Thủ Đức (4 cơ sở), huyện Bình Chánh
(3 cơ sở), huyện Cần Giờ (3 cơ sở), quận 2 (2 cơ sở), quận Bình Thạnh (2 cơ sở),
quận Gò Vấp (1 cơ sở), quận Tân Bình (1 cơ sở) và quận 12 (1 cơ sở).
Bảng 1.1 Danh sách các sơ
sở giết mổ gia súc trên địa bàn TP.HCM
TT
|
Tên cơ sở
|
Công
suất
(con/ngày) |
Địa
chỉ
|
1
|
VISSAN
|
400
+ (100 Trâu bò)
|
420 Nơ Trang Long, P. 13, Q. BT
|
2
|
Nam Phong
|
1200
|
344 Nơ Trang Long, P. 13, Q. BT
|
3
|
Cửa hàng thực phẩm
GV
|
150
- 200
|
Huỳnh Khương An, P. 5, Q. GV
|
4
|
TABICO
|
600
- 700
|
1333 Hương Lộ 2, Q. Tân Bình
|
5
|
Trung tâm Q. 12
|
300
|
242/1 KP2, Tân Thới
Hiệp
|
6
|
Trạm 4
|
250
- 300
|
4 Nguyễn Duy, Q. 8
|
7
|
213 Bến Bình Đông
|
140
-150
|
213 Bến Bình Đông,
Q.8
|
8
|
Trung Tâm Bình
Chánh
|
900
- 1000
|
Ấp 1, xã Tân Tạo,
Bình Chánh
|
9
|
Phong Phú
|
100
|
Ấp 1, xã Phong Phú,
Bình Chánh
|
10
|
Ấp 3, xã Bình Chánh
|
10
|
C9/32 ấp 3, xã Bình
Chánh
|
11
|
Thị Trấn Hóc Môn
|
280
- 300
|
Tân Thới Nhất, xã
Tân Hiệp, H. Hóc Môn
|
12
|
Bà Điểm
|
150
-160
|
55/4 ấp Tiền Lân,
Bà Điểm, H. Hóc Môn
|
13
|
Xuân Thới Sơn
|
40
|
Ấp 1, xã Xuân Thới
Sơn, H. Hóc Môn
|
14
|
Thị Trấn Thủ Đức
|
50
|
26 Tâm Tâm Xã, Linh
Tây, Q. Thủ Đức
|
Hiệp Bình Chánh
|
55
|
Ấp Bình Triệu, H.
Bình Chánh
|
|
Bảng 1.1 Danh sách các sơ sở giết mổ gia súc trên địa bàn TP.HCM
|
|||
TT
|
Tên cơ sở
|
Công
suất
(con/ngày) |
Địa
chỉ
|
16
|
Tam Bình
|
40
|
78C/4 H. Lộ 25, Tam
Bình, Q. Thủ Đức
|
17
|
Linh Đông
|
10
trâu bò
|
9/2 KP8, P. Linh
Đông, Q. Thủ Đức
|
18
|
Bình Trương Đông
|
20
|
36 Ng. Duy Trình,
P. Bình Trị Đông, Q.2
|
19
|
Thủ Thêm
|
10
|
558/7C Trần Não,
AL. Đông
|
20
|
Long Thạnh Mỹ
|
15
|
46/3 H. Lộ 31, Long
Thạnh Mỹ, Q. 9
|
Nguồn: Chi cục Thú y TP.HCM, 2003
Hình thức giết mổ tại các cơ sở ở TP.HCM
Phương pháp giết mổ tại các cơ sở ở
TP.HCM chủ yếu là thủ công. Gần như 100% cơ sở giết mổ đều cho gia súc nằm (
trên nền xi-măng), tất cả các công đoạn đều theo phương pháp thủ công. Chỉ có 1
công ty có đầu tư dây chuyền giết mổ treo, tuy nhiên số lượng heo mổ treo là
không đáng kể, khoảng 40-50 con/đêm trong tổng công suất giết mổ heo mỗi đêm.
Hình 1.1 Giết mổ heo bằng phương pháp thủ
công.
Hình 1.2 Giết mổ heo có đầu
tư dây chuyền giết mổ.
Các công đoạn giết mổ gia súc tại các cơ sở
Phương thức giết mổ tại các cơ sở
giết mổ gia súc đều thực hiện hầu như theo phương pháp thủ công. Tuy mỗi cơ sở
có sự bố trí khác nhau và có một điểm khác biệt trong thao tác nhưng đều thực
hiện qua các công đoạn sau:
Tồn trữ gia súc sống: theo qui định, gia súc phải được nhốt trong khoảng thời gian từ 9-12 giờ để
giảm căn thẳng, chống suy kiệt và loại bỏ vi trùng ra khỏi ruột trước khi giết
mổ. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết heo chỉ được nhập về vào khoảng 5-6 giờ chiều,
có nơi đến 9 giờ tối heo mới được nhập về và 12 giờ đêm là đã giết mổ, như vậy
khoảng thời gian thực sự heo chỉ nghỉ ngơi trước khi giết mổ chỉ được từ 3-6 giờ
và khu tồn trữ thú sống thực tế tại các cơ sở rất chật chội, heo luôn trong
tình trạng chèn ép, chà đạp lên nhau.
Làm choáng: tại các cơ sở giết mổ, heo chủ yếu được làm choáng bằng
phương pháp chích điện. Chích điện có thể thực hiện theo 2 kiểu:
-
Kẹp điện: thường sử dụng điện 1 chiều
-
Dí điện: sử dụng điện xoay chiều, kẹp đầu day điện vào tai
heo sau đó kéo cầu dao điện, kiểu dí điện heo chết nhanh hơn kiểu kẹp điện
nhưng công nhân phải tốn sức nhiều hơn.
Ngoài ra còn có một kiểu
khác làm heo yếu sức trước khi chọc tiết mà không phải chích điện đó là dùng
búa tạ đập đầu heo.
Chọc tiết: công đoạn chọc tiết cũng có nhiều cách thực hiện khác
nhau:
- Chọc tiết ngay trên sàn
trong chuồng nhốt.
- Chọc tiết ngay trên bệ ngay
cửa ra vào chuồng nhốt
- Chọc tiết trên sàn ngay khu
vực giết mổ
- Chọc tiết trên bệ chảo trụng
Trong các kiểu chọc tiết
này, kiểu thường sử dụng nhất là chọc tiết trên bệ cửa ra vào chuồng nhốt.
Trụng nước sôi: thường ở tất cả các lò mổ đều làm theo một cách đó là nhúng
nguyên con heo vào chảo trụng. Tuy nhiên trong trường hợp heo quá lớn so
với chảo trụng hoặc công nhân không thể kéo heo lên bệ chảo trụng được, người
ta sẽ thức hiện theo kiểu dội nước.
Cạo lông: có 2 kiểu cạo lông:
-
Cạo lông trên sàn;
-
Cạo lông trên chảo trụng.
Cạo lông trên chảo trụng thường chỉ
cạo sạch khoảng 80-90% , sau đó kéo xuống bệ mổ để cạo sạch lại trước khi xẻ thịt.
Cắt đầu, mổ tách lòng và xẻ thịt: công đoạn cắt đầu, mổ tách lòng và
xẻ thịt hầu hết được thực hiện trên bệ xi măng. Đầu được cắt riêng trược hoặc
sau khi rạch bụng, phần đầu được gác lên kệ. Phần lòng được chuyển về khu vực
làm lòng. Khâu tiếp theo là xẻ đôi thân thịt và treo quày thịt lên móc nhờ nhân
viên thú y đến khám.
Làm lòng: lòng được chia thành 2 phần:
-
Lòng đỏ gồm: tim, gan, thận, cật, phổi, sau khi mổ rửa sẽ được treo lên
giá để kiểm tra thú y.
-
Lòng trắng gồm: bao tử, ruột, được làm sạch theo 2 cách:
+
Để dưới vòi nước chảy cho đến khi sạch hết phân;
+
Vuốt bỏ phân ra ngoài trước khi dội nước.
Nước thải của các cơ sở giết mổ động
vật gồm có thịt, mỡ, một số phụ phẩm xương (chiếm 30-40%), nội tạng, da, lông của
các loại gia súc (trâu, bò, heo, dê), gia cầm (gà, vịt, ngan,...).
Nước thải từ các xí nghiệp giết mổ
rất giàu các chất hữu cơ ( protein, lipit, các axit amin, N-amon,...). Ngoài
ra, còn có thể có vụn xương, thịt vụn, mỡ, lông, móng, BOD5 tới
7.000 mg/l và COD tới 9.200 mg/l. Nguồn N-amin cao, nhưng các nguồn dinh dưỡng
khác lại thấp đặc là nguồn phosphat, vì vậy trong quá trình xử lý nước thải bằng
phương pháp sinh học cần phải bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng.
Nước thải từ các phân xưởng giết mổ,
chế biến, nước rửa thiết bị, nước vệ sinh, nước làm sạch khí, nước ngưng ở lò
hơi.
Chất thải rắn
Chất thải rắn chủ yếu là lông, huyết
ứ, đầu mẫu thừa và phân heo. Trong quá trình giết mổ, chất thải rắn hầu như
không được thu gom, công nhân thường xịt nước thật nhiều cho chúng trôi vào hố
gas hoặc đường cống, sau đó được lấy lên cùng với cặn và bùn lắng. Đây cũng là
một trong những công đoạn sử dụng nhiều nước, vì phải xịt nước với áp lực rất mạnh
thì lông, phân mới có thể trôi đi được. Chính vì vậy không những làm tắc nghẽn
đường ống thoát nước mà còn làm gia tăng lượng nước thải ra môi trường. Ngoài
ra, phần chất thải rắn nếu không được người dân xung quanh đem về ủ làm phân
bón thì sẽ được thải trực tiếp ra môi trường, đây chính là một trong những tác
nhân gây ô nhiễm môi trường và lây truyền các mầm bệnh.
Nước thải
Các nguồn phát sinh nước thải trong
hoạt động giết mổ gia súc: nước rửa chuồng trại, nước nóng cạo lông, nước mổ có
lẫn máu, nước làm lòng.
Hầu hết các công đoạn trong quá
trình giết mổ đều sử dụng nước, công đoạn sử dụng nước nhiều nhất là công đoạn
cạo lông, mổ thịt và làm lòng.
Do lượng nước thải sử dụng nhiều
nên lượng nước thải thải ra rất lớn, ước tính trung bình mỗi con heo khi giết mổ
thải ra gần 0,5 m3 nước thải.
Trong khi tập kết heo trong chuồng
trại chờ giết mổ, thường heo phải được lưu trong trại một khoảng thời gian nhất
định để loại bỏ những thức ân dư thừa trong bụng trước khi giết mổ. Ngoài ra lượng
heo còn lại trong chuồng chưa được giết mổ phải cho ăn thường xuyên, trong quá
trình phát sinh một lượng thức ăn dư. Công đoạn dọn dẹp chất thải rắn bằng nước
được sử dụng rộng rãi tạo ra một lượng nước thải khá lớn. Trong nước thải, hợp
chất hữu cơ chiếm khoảng 70% - 80% gồm cenllulose, protit, axit amin. Trong nước
thải chứa nhiều loại vi trùng, virut và trứng giun sán gây bệnh như: virus lở mồm
long móng, Brucella, Salmonella, Leptospira, Microbacteria tuberculosis,...
Để đảm bảo an toàn thực phẩm, đảm bảo
huyết không bị nhiễm các loại vi khuẩn gây bệnh. Trước khi giết mổ, heo phải được
tắm rửa sạch sẽ, chuồng trại cũng phải được rửa sạch. Khi heo bị dí điện không
bị vấy bẩn ảnh hưởng đến chảo trụng chung. Công đoạn này cần một nước khá nhiều
tương đương với phải tắm cho heo.
Trong công đoạn giết mổ, chọc tiết,
cạo lông, xẻ thịt cần một lượng nước lớn. Trung bình 1 con heo khi hạ mổ hoàn
chỉnh ước tính tốn khoảng 0,5m3 nước. Nước thải trong giai đoạn này
được quan tâm nhiều vì tính chất đặc thù riêng của ngành giết mổ. Nước thải giết
mổ thường chứa các thành phần hữu cơ như máu, mỡ, protein, nitơ, phospho, các
chất tẩy rửa và các chất bảo quản thực phẩm. Lượng huyết rơi vãi trong và sau
công đoạn chọc tiết và lượng huyết ứ động trong bụng heo là một trong những
nhân tố làm nước thải tại các cơ sở ô nhiễm một cách trầm trọng, là nguyên nhân
làm cho thành phần các chất hữu cơ trong nước thải tăng cao.
Nhiệt độ
Tùy từng công đoạn mà nước thải ra
môi trường có nhiệt độ khác nhau, nhiệt độ tại các chảo trụng sau khi hoàn tất
việc giết mổ được đổ thẳng vào hệ thống thoát nước chung, nhiệt độ này tương đối
cao có khi lên tới 60-700C.
Tại các công đoạn còn lại, nhiệt độ
nước phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, nhiệt độ nguồn cấp nước, nhiệt độ này
vào khoảng 26-300C.
BOD
BOD trong nước thải giết mổ gia súc
tương đối cao do tính chất của nước thải chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân hủy.
BOD thường dao động trong khoảng.
COD
Tương tự như BOD, COD cũng rất cao
vượt tiêu chuẩn xả thải tới 25-100 lần.
H2S VÀ NH4
H2S và NH4
phát sinh chủ yếu là do các chất phân hủy kỵ khí tạo thành, đây cũng là chất
khí đặc trưng thương thấy tại các lò giết mổ.
Độ mặn
Độ mặn trong nước thải giết mổ gia
súc tương đối cao, độ mặn phát sinh từ nước thải có nhiễm máu, nước thải từ
khâu làm lòng do gia súc chưa tiêu hóa hết thức ăn.
Các vấn đề môi trường trong hoạt động
giết mổ gia súc tại các cơ sở giết mổ gia súc chủ yếu là nước thải, ngoài ra
còn có một số yếu tố khác gây ảnh hưởng như việc phát thải các mùi khó chịu, vấn
đề tiếng ồn, chất thải rấn và các nội tạng thừa của gia súc.
Nước thải
Nước thải của các cơ sở giết mổ gia
súc thường bị ô nhiễm do các thành phần như: huyết rơi vãi, huyết ứ động trong
bụng, protein, nitơ, phospho, các chất tẩy rửa và chất bảo quản thực phẩm.Trong
nước thải có mang nhiều vi khuẩn, vi sinh gây bệnh là tác nhân truyền bệnh như:
E.coli, shigella, vibrio comma,...
Do hàm lượng các chất ô nhiễm trong
nước thải giết mổ gia súc cao, nồng độ đậm đặc nên khi thải vào nguồn tiếp nhận
nếu không được xử lý triệt để sẽ làm ô nhiễm các môi trường khác. Nguồn nước ô
nhiễm có thể phát sinh từ các công đoạn như: rửa chuồng trại, rửa thịt, làm
lòng.Khâu làm lòng là một trong những công đoạn phát sinh ra một lượng lớn nước
thải bị ô nhiễm. Đối với các loại gia súc là heo, những chất bên trong lòng chiếm
khoảng 6% trọng lượng sống của cơ thể. Như vậy khâu làm lòng thải một lượng lớn
chất ô nhiễm vào nước thải.
Ngoài ra, nước sôi khi cạo lông,
phân và nước tiểu gia súc tạo ra trong quá trình nhốt chờ mổ cũng chứa các chất
gây ô nhiễm lớn.
Các hợp chất hữu cơ có trong nước
thải chủ yếu là carbohydrat. Đây là hợp chất dễ bị VSV phân hủy bằng cơ chế sử dụng oxi hòa tan trong nước
để oxi hóa các hợp chất hữu cơ. Nhu cầu oxi hóa tỷ lệ với nồng độ các chất hữu
cơ trong nước. Sự ô nhiễm CHC dẫn đến suy giảm nồng độ oxi hòa tan trong nước,
gây tác hại đến hệ thủy sinh.
Không khí
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí là một trong những vấn đề nan giải trong hoạt động giết mổ gia súc. Vì
giết mổ gia súc trong môi trường thoáng dễ làm khuếch tán các chất ô nhiễm vào
trong môi trường không khí. Hầu như hoạt
động của các lò giết mổ đều gây mùi khó chịu, ô nhiễm không khí tại các lò giết
mổ chủ yếu phát sinh từ các nguồn sau:
Từ khu nhốt gia súc: mùi hôi đặc trưng từ biểu bì heo, phân và nước tiêu thường
xuyên khuếch tán vào môi trường không khi.
Từ khu giết mổ: mùi hôi bốc lên khi xối nước nóng, chất thải rắn đọng lại
trên bệ mổ do làm vệ sinh không tốt.
Khu làm lòng: mùi hôi chủ yếu từ thức ăn gia súc bị lên men, lây lan các vi khuẩn gây
bệnh.
Từ các khu xử lý sơ bộ: mùi hôi bốc lên từ các hầm, hố, cống rãnh.
Các chất gây ô nhiễm môi trường
không khí thường gặp tại các lò giết mổ là: SO2, NO2, CO,
CO2, NH3, CH4.
Ngoài ra, còn có ô nhiễm tiếng ồn
gây ảnh hưởng đến người dân xung quanh. Tiếng ồn phát sinh từ các hoạt động vận
chuyển heo sống, vận chuyển thành phẩm, tiếng heo kêu từ khu nhốt, đập heo.
Chất thải rắn
Chất thải rắn phát sinh từ các hoạt
động giết mổ gia súc chủ yếu là: lông, phân, thức ăn dư thừa, các đầu mẫu thừa,
các bộ phận cắt bỏ từ gia súc bị bệnh. Các thành phần chất thải này thường gom
lại để cho nông dân bón cho cây trồng hoặc làm thức ăn nuôi thủy sản. Nhưng lượng
chất rắn này thường xuyên phải tồn động trong thời gian dài là nguyên nhân phát
tán mùi hôi.
Nước thải giết mổ gia súc chứa nhiều
thành phần hợp chất hữu cơ, chủ yếu là hydratcacbon, chúng là các hợp chất dễ bị
vi sinh phân hủy. Khả năng ô nhiễm của nước thải giết mổ gia súc lớn nếu không
được xử lý triệt để.
Trong nước thải giết mổ gia súc chứa
nhiều vi sinh, các ký sinh trùng. Các vi sinh này rất dễ lây nhiễm cho người và
động vật. Thành phấn chất hữu cơ nhiều nhưng những chất khoáng cần thiết để cho
vi sinh vật sống lại không đảm bảo. Khi xử lý bằng phương pháp sinh học cần
quan tâm đến tỷ lệ thành phần các chất BOD:N:K.
Cơ sở giết mổ gia súc Tân Phú Trung
bắt đầu hoạt động giết mổ từ năm 1990. Trong 10 năm đầu cơ sở chỉ được Chi cục
thú y TP.HCM cấp giấy phép hoạt động 2 năm 1 lần. Từ năm 2000 Chi cục thú y
TP.HCM xét thấy cơ sở luôn chấp hành đúng quy đinh cảu Chi cục ( an
toàn thực phẩm và các quan tấm đến vấn đề môi trường). Năm 2000 sở thú y TP.HCM
đã cấp giấy phép hoạt động giết mổ gia súc vĩnh viễn. Đầu năm 2004, cơ sở đã áp
dụng sản xuất sạch hơn để cải thiện hơn nữa tình hình môi trường và để tiết kiệm
nhiên liệu.
Cơ sở giết mổ gia súc Tân Phú Trung
thuộc loại hình giết mổ tư nhân, nên mọi hoạt động giết mổ đều do chủ cơ sở tự
quyết đinh như:
- Tự tìm nguồn nguyên liệu: nguồn
nguyên liệu bao gồm các cơ sở chăn nuôi công nghiệp, các trang trại chăn nuôi vừa,
chăn nuôi hộ gia đình quy mô nhỏ.
- Cho thuê mướn mặt bằng giết mổ theo
đầu heo: người thuê phải trả tiền điện, nước, nhiên liệu sử dụng. Tự trả chi
phí dịch vụ kiểm tra vệ sinh thú y theo đầu heo.
- Tự tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm:
sản phẩm thịt chủ yếu cung cấp cho các chợ nhoe của huyện, khu công nghiệp, xí
nghiệp và các trường học trong huyện.
- Đảm bảo công tác kiểm tra vệ sinh
thú y trên từng đầu heo.
Cơ sở giết mổ gia súc Tân Phú Trung
có một chảo trụng đường kính 1,2m. Công suất giết mổ mỗi đêm trung bình khoảng
60 đầu heo.
Vị trí đặt cơ sở
Lò giết mổ Tân Phú Trung đặt tại số
282/2K ấp Đình, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Tp.HCM với diện tích khu giết mổ
là 450m2. Lò mổ Tân Phú Trung nằm trong khu vực dân cư chưa có hệ thống
thoát nước.
Địa hình nơi đặc cơ sởt
Địa hình Củ Chi nằm trong vùng chuyển
tiếp giữa miền Tây nam bộ và miền sụt Đông nam bộ, với độ cao giảm dần theo hướng
Tây Bắc-Đông Nam và Tây Bắc-Tây Nam. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ
8m-10m. Ngoài ra địa bàn huyện có tương đối nhiều ruộng, đất đai thuận lợi để phát
triển nông nghiệp so với các huyện trong Thành phố.
Khí hậu nơi đặt cơ sở
Huyện Củ Chi nằm
trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo. Khí hậu
chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau, với đặc trưng chủ yếu là:
- Nhiệt độ tương
đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng 26,6oC.
Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28.8oC (tháng 4), nhiệt độ
trung bình tháng thấp nhất 24,8oC (tháng 12). Tuy nhiên biên độ nhiệt
độ giữa ngày và đêm chênh lệch khá lớn, vào mùa khô có trị số 8 - 10oC.
- Lượng mưa
trung bình năm từ 1.300 mm - 1.770 mm, tăng dần lên phía Bắc theo chiều cao địa
hình, mưa phân bổ không đều giữa các tháng trong năm, mưa tập trung vào tháng
7,8,9; vào tháng 12,tháng 1 lượng mưa không đáng kể.
- Độ ẩm không
khí trung bình năm khá cao 79,5% cao nhất vào tháng 7,8,9 là 80 - 90%, thấp nhất
vào tháng 12,1 là 70%.
- Tổng số giờ nắng
trung bình trong năm là 2.100 - 2.920 giờ.
Thủy văn tại nơi đặt cơ sở
Huyện Củ Chi
có hệ thống sông, kênh, rạch khá đa dạng, với những đặc điểm chính:
- Sông Sài Gòn
chịu chế độ ảnh hưởng dao động bán nhật triều, với mực nước triều bình quân thấp
nhất là 1,2m và cao nhất là 2,0 m
- Các hệ thống
kênh rạch tự nhiên khác, đa số chịu ảnh hưởng trực tiếp chế độ hủy văn của sông
Sài Gòn như Rạch Tra, Rạch Sơn, Bến Mương … Riêng chỉ có kênh Thầy Cai chịu ảnh
hưởng chế độ thủy văn của sông Vàm Cỏ Đông.
- Nhìn chung hệ
thống sông, kênh, rạch trực tiếp chi phối chế độ thủy văn của huyện và nét nổi
bậc của dòng chảy và sự xâm nhập của thủy triều.
Tình hình kinh tế-xã hội
Củ Chi là một huyện ngoại thành của
TP.HCM, nằm về phía Tây Bắc, với diện tích tự nhiên 434.97 km2. Có 1 thị trấn
và 20 xã.
Củ Chi có mạng
lưới sông, rạch tương đối nhiều, ngoài sông Sài Gòn ra Củ Chi còn có hệ thống
kênh rạch tự nhiên và nhân tạo hết sức phong phú; trong đó đáng chú ý nhất là hệ
thống kênh Đông. Kênh Đông là công trình thủy lợi lấy nước từ hồ Dầu Tiếng (Tây
Ninh) về tưới cho gần 14.000 ha đất canh tác của huyện.
Về giao thông,
Củ Chi có thế mạnh là tuyến đường Xuyên Á (quốc lộ 22) chạy dọc suốt theo chiều dài của huyện nối
với Campuchia qua Cửa khẩu
kinh tế Mộc Bài của tỉnh Tây Ninh nên Củ Chi trở
thành cầu nối giao lưu kinh tế và giao thương đường bộ giữa thành phố Hồ Chí
Minh với vùng kinh tế trọng điểm và các khu công nghiệp.
Tổng dân số
toàn huyện 349.772 người (số liệu điều tra tháng 4/2009), với nhiều dân tộc anh
em cùng sinh sống trong đó người Kinh chiếm đa số (81,90%).
Kinh tế huyện
tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng cao, tăng bình quân 20,26%/năm. Tính đến cuối
năm 2010, tỷ trọng khu vực công nghiệp chiếm 71,73%, nông nghiệp chiếm 10,34%,
dịch vụ chiếm 17,93% tổng giá trị sản xuất với tốc nhanh phù hợp với tiến trình
công nghiệp hóa.
Thu nhập bình
quân đầu người đạt trên 16.224 triệu đồng/năm (đến năm 2009), giải quyết việc
làm cho 56.000 lao động; Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 196.073 triệu USD.
Do cơ sở giết mổ Tân Phú Trung nằm
trong khu dân cư nên vấn đề môi trường cũng được chủ cơ sở quan tâm. Đặc biệt
là vấn đề chất thải rắn, nước thải, môi trường không khí và an toàn thực phẩm.
Đầu năm 2004, cơ sở đã áp dụng sản
xuất sạch hơn trong giết mổ gia súc. Điều đó chứng tỏ cơ sở rất quan tâm đến vấn
đề môi trường.
Mặc dù cơ sở đã áp dụng sản xuất sạch
hơn, nhưng cũng chỉ giảm một phần nào chất thải vào môi trường. Sử dụng điện nước
hợp lý, phân bố lại các khu giết mổ, qui trình giết mổ. Thế nhưng bấy nhiêu vẫn
chưa đủ, để giải quyết tận gốc vấn đề cần phải xây dựng một hệ thống xử lý cuối
đường ống.
Hiện nay, vấn đề môi trường của cơ
sở Tân Phú Trung còn nhiều mặt cần phải quan tâm. Đặc biệt là nước thải và chất
thải rắn.
Chương 2
TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI GIẾT MỔ GIA SÚC HIỆN CÓ
Các loại nước thải đều chứa các tạp
chất gây nhiễm bẩn có tính chất rất khác nhau: từ các loại chất rắn không tan,
đến các loại chất rắn khó tan và những hợp chất tan trong nước. Xử lý nước thải
là loại bỏ các tạp chất đó, làm sạch lại nước và có thể đưa nước đổ vào nguồn
hoặc đưa tái sử dụng. Để đạt được những mục đích đó chúng ta thường dựa vào những
đặc điểm của từng loại nước thải để lựa chọn phương án xử lý thích hợp.
Thông thường có những phương pháp xử
lý nước thải sau:
- Xử lý bằng phương pháp cơ học;
- Xử lý bằng phương pháp hóa lý và
hóa học;
- Xử lý bằng phương pháp sinh học.
Trong nước thải thường có những loại
tạp chất rắn cở khác nhau bị cuốn theo, như rơm, gỗ, bao bì, chất dẽo,...Ngoài
ra, còn có các loại hạt lơ lửng ở dạng huyền phù rất khó lắng. Tùy theo các
kích cỡ, các hạt huyền phù được chia thành hạt chất rắn lơ lửng có thể lắng được,
hạt chất rắn keo được khử bằng đông tụ.
Các hợp chất trên dùng phương pháp
xử lý cơ học là thích hợp (trừ hạt dạng chất rắn).
2.1.1 Song chắn rác
Song chắn rác (SCR) nhằm giữ lại
các vật thô như nylon, giấy, chất dẻo, cỏ cây,...Các loại rác này có thể làm tắt
nghẽn đường dẫn nướ hoặc làm hư hỏng máy bơm.
Song làm bằng sắt tròn hoặc vuông
(sắt tròn có đường kính 8-10mm), thanh này cách thanh kia một khoảng bằng
60-100mm để chắn vật thô và 10-25mm để chắn vật nhỏ hơn, SCR đặt nghiên theo
dòng chảy một góc 60-750.
Vận tôc dòng chảy qua SCR lấy bằng
0,8-1m/s để tránh lắng cát.
2.1.2 Lưới lọc
Sau SCR để loại bỏ các tạp chất rắn
có kích thước nhỏ hơn, mịn hơn như lông gia súc, các chất lơ lững,...ta có thể
đặt thêm lưới lọc. Các vật thải được giữ lại trên mặt lọc phải được cào lấy ra
để khỏi làm tắt dòng chảy. Người ta còn thiết kế lưới lọc hình tang trống cho
nước thải từ ngoài vào hoặc từ trong ra.
2.1.3 Bể lắng cát
Bể lắng cát
(grit chamber) dùng để chắn giữ những hạt
cát, sạn nhỏ có trong nước thải. Các hạt cát này có thể gây hư hỏng máy bơm và làm nghẽn các ống dẫn bùn của các bể lắng.
Khi lượng nước thải lớn hơn 100 m3/ngày thì việc xây dựng bể lắng cát là cần thiết.
Bể lắng cát thông dụng là bể lắng
cát ngang, thường thiết kế 2 ngăn, một ngăn cho nước qua, một ngăn cào cát sỏi
lắng. Hai ngăn này làm việc luân phiên.
Ngoài lắng cát, sỏi, trong quá
trình xử lý cần phải lắng các hạt cân lơ lửng,các loại bùn nhằm làm cho nước
trong.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
lắng: lưu lượng nước thải, thời gian lắng, khối lượng riêng và tải trọng tính
theo chất rắn lơ lững, tải trọng thủy lực, sự keo tụ các chất rắn, vận tốc dòng
chảy trong bể, sự nén bùn đặc, nhiệt độ nước dòng chảy và kích thước bể lắng.
2.1.4 Tách dầu mỡ
Nước thải của một xí nghiệp ăn uống,
chế biến bơ sữa, các lò mổ, xí nghiệp ép dầu cũng có lẫn dầu mỡ. Các chất này
thường nhẹ hơn nước nổi lên trên mặt nước, một phần tan trong nước dưới dạng
nhũ tương.
Nước thải có lẫn dầu mỡ, khi vào xử
lý sinh học sẽ làm bí các lỗ hổng ở vật liệu lọc, ở màng lọc sinh học và còn
làm hổng cấu trúc bùn hoạt tính trong aeroten.
Ngoài cách làm các gạt đơn giản bằng
các tấm sợi quét trên mặt nước, người ta chế tạo ra các thiết bị tách dầu đặt
trước dây chuyền công nghệ xử lý nước thải.
2.1.5 Lọc cơ học
Lọc được dùng trong xử lý nước thải
để tách các tạp chất phân tán nhỏ khỏi nước mà bể lắng không lắng được. Trong
các loại phin lọc thường có loại phin lọc dùng vật liệu lọc dạng tấm và hạt. Vật
liệu lọc dạng tấm có thể làm bằng tấm thép không gỉ, nhôm, niken, đồng thau,
các loại vải khác nhau( thủy tinh, amiăng, bông, len, sợi tổng hợp). Tấm lọc cần
có trở lực nhỏ, đủ bền và dẻo cơ học không bị trương nở và bị phá hủy bởi điều
kiện lọc.
Vật liệu lọc dạng hạt là cát thạch
anh, than gầy (antracit), than cốc, sỏi đá nghiền, than nâu, than bùn hay than
gỗ.
Đặc tính quan trọng của lớp hạt lọc
là độ xốp và độ bền mặt riêng. Quá trình lọc có thể xảy ra với tác dụng của áp
suất thủy tĩnh của cột chất lỏng hoặc áp suất cao trước vách vật liệu lọc hay
chân không sau lớp lọc.
Các phin lọc làm việc sẽ tách các
phần tử tạp chất phân tán hoặc lơ lửng khó lắng khỏi nước. Các phin lọc làm việc
không hoàn toàn dựa vào nguyên lý cơ học. Khi nước qua lớp lọc, tạo ra lớp màng
sinh học trên bề mặt các hạt vật liệu lọc. Do vậy, ngoài tác dụng tách các phần
tử tạp chất ra khỏi nước, các màng sinh học cũng đã biến đổi các chất hòa tan
trong nước thải nhờ quần thể VSV có trong màng sinh học.
Chất bẩn và màng sinh học sẽ bám
vào bề mặt vật liệu lọc dần dần bít các khe hở của lớp lọc làm cho dòng chảy bị
chậm lại hoặc ngừng chảy. Trong quá trình làm việc người ta phải rửa phin lọc,
lấy bớt màng bẩn phía trên và cho nước rửa từ dưới lên trên để tách màng bẩn ra
khỏi vật liệu lọc.
Cơ sở của phương pháp hóa học là
các phản ứng hóa học, các quá trình lý hóa diễn ra giữa chất bẩn với hóa chất
được cho vào. Các phương pháp hóa học là oxi hóa, trung hòa, đông keo tụ. Thông
thường các quá trình keo tụ đi kèm theo qua trình trung hòa hoặc các hiện tượng
vật lý khác. Những phản ứng xảy ra là phản ứng trung hòa, phản ứng oxi hóa-khử,
phản ứng tạo chất kết tủa hoặc phản ứng phân hủy các chất độc hại.
2.2.1 Trung hòa
Nước thải thường có những giá trị
pH khác nhau. Để nước thải được xử lý tốt bằng phương pháp sinh học phải tiến
hành trung hòa và điều chỉnh pH về vùng 6,6-7,6.
Trung hòa nước thải bằng cách dùng
các dung dịch axit hoặc muối axit, các dung dịch kiềm hoặc axit kiềm.
Bảng 2.1 Các chất hóa học dùng để điều chỉnh
pH
STT
|
Tên hóa chất
|
Công thức hóa học
|
1
|
Canxi cacbonat
|
CaCO3
|
2
|
Canxi oxit
|
CaO
|
3
|
Canxi hidroxit
|
Ca(OH)2
|
4
|
Magiê oxit
|
MgO
|
5
|
Magiê hidroxit
|
Mg(OH)2
|
6
|
Vôi sống dolomit
|
CaO0,6MgO0,4
|
7
|
Vôi tôi dolomit
|
[(Ca(OH)2)0,6(Mg(OH)2)0,4]
|
8
|
Natri hidroxit
|
NaOH
|
9
|
Natri cacbonat
|
Na2CO3
|
10
|
Axit sulfuric
|
H2SO4
|
11
|
Axit clohydric
|
HCl
|
12
|
Axit nitrit
|
HNO3
|
2.2.2 Keo tụ
Trong quá tình lắng cơ học chỉ tách
được các hạt chất rắn huyền phù có kích thước lớn hơn 10-2 mm, còn
các hạt nhỏ hơn ở dạng keo không thể lắng được. Ta có thể làm tăng kích cỡ các
hạt nhờ tác dụng tương hỗ giữa các hạt phân tán liên kế vào các tập hợp hạt để
có thể lắng được . Muốn vậy, trước hết cần trung hòa điện tích của chúng, kế đến
là liên kế chúng lại với nhau. Quá trình trung hòa điện tích các hạt được gọi
là quá trình đông tụ, còn quá trình tạo thành các bông lớn từ các hạt nhỏ gọi
là quá trinh keo tụ.
Các hạt lơ lửng trong nước điều
mang điện tích âm hoặc dương. Các hạt có nguồn gốc từ silic và các hợp chất hữu
cơ mang điện tích âm, các hạt hidroxit sắt và hidroxit nhôm mang điện tích
dương. Khi thế điện động của nước bị phá vỡ, các hạt mang điện tích này sẽ liên
kế lại với nhau thành các tổ hợp các phân tử, nguyên tử hay các ion tự do. Các
tổ hợp này chính là các hạt bông keo. Có 2 loại bông keo, loại kỵ nước và loại
ưa nước. Loại ưa nước thường ngậm thêm các phân tử nước cùng vi khuẩn, vi rút.
Loại keo kỵ nước đóng vai trò chủ yếu trong công nghệ xử lý nước nói chung và xử
lý nước thải nói riêng.
Các chất đông tụ thường dùng trong
mục đích này là các muối sắt hoặc muối nhôm hoặc hỗn hợp của chúng.
Các muối sắt có ưu điểm hơn các muối
nhôm trong việc làm đông tụ các chất lơ lửng của nước, vì:
- Tác dụng tốt hơn ở nhiệt độ thấp;
- Khoảng pH tác dụng rộng hơn;
- Tạo kích thước và độ bền bông keo lớn
hơn;
- Có thể khử được mùi vị khi có H2S.
Tuy nhiên, những muối sắt cũng có
các nhược điểm: chúng tạo thành phức hòa tan làm cho nước có màu.
Những chất kết lắng thành bùn và
trong bùn có chứa nhiều hợp chất khó tan. Việc sử dụng làm phân bón cần phải
xem xét, cân nhắc, vì bùn này có thể làm cho cây trồng khó tiêu hóa.
2.2.3 Hấp phụ
Phương pháp hấp phụ được dùng để loại
hết các chất bẩn hòa tan vào nước mà phương pháp xử lý sinh học cùng các phương
pháp khác không loại bỏ được các hàm lượng rất nhỏ. Thông thường đây là các hợp
chất hòa tan có độc tính cao hoặc các chất có mùi rất khó chịu.
Các chất hấp phụ thường được dùng
là: than hoạt tính, đất sét hoạt tính, silicagen, keo phèn nhôm, một số chất tổng
hợp hoặc chất thải trong sản xuất, như xỉ tro, xỉ mạ sắt. Trong số này than hoạt
tính được dùng phổ biến nhất. Than hoạt tính có 2 loại: bột và dạng hạt đều được
dùng được dùng để hấp phụ. Các chất hữu cơ, kim loại nặng và các chất màu dễ bị
than hấp phụ. Lượng chất hấp phụ phụ thuộc vào khả năng hấp phụ của từng chất
và hàm lượng chất bẩn có trong nước. Phương pháp này có thể hấp phụ được 58-96%
các chất hữu cơ và màu.
2.2.4 Tuyển nổi
Phương pháp tuyển nổi dựa trên
nguyên tắc: các phân tử phân tán trong nước có khả năng tự lắng kém, nhưng có
khả năng kết dính vào bọt khí nổi lên trên bề mặt nước. Sau đó, người ta tách
các bọt khí cùng các phân tử ra khỏi nước. Thực tế, đây là quá trình tách bọt
hoặc làm đặc bọt. Trong một số trường hợp, quá trình này cũng được dùng để tách
các chất hòa tan như các chất hoạt động bề mặt.
Quá trình này được thực hiện nhờ thổi
khí thành bọt nhỏ vào trong nước thải. Các bọt khí dính các hạt lơ lửng lắng
kém và nổi lên bề mặt. Khi nổi lên các bọt khí tập hợp thành bông hạt đủ lớn, rồi
tạo thành một lớp bọt chứa nhiều các hạt bẩn.
Tuyển nổi hạt nhằm tách các chất lơ
lửng không tan và một số chất keo hoặc hòa tan ra khỏi pha lỏng.
2.2.5 Trao đổi ion
Thực chất của phương pháp trao đổi
ion là một quá trình trong đó các ion trên bề chất rắn trao đổi với các ion
cùng điện tích trong dung dịch khi chúng tiếp xúc với nhau. Các chất này gọi là
các chất trao đổi ion. Chúng hoàn toàn không tan trong nước.
Phương pháp này loại ra khỏi nước
các ion kim loại như Cr, Ni, Pb, Hg,... Cũng như các hợp chất có chứa asen,
phospho, xianua và cả các chất phóng xạ. Phương pháp này được dùng phổ biến để
làm mềm nước, loại ion Ca2+ và Mg2+ ra khỏi nước cứng.
Các chất trao đổi ion là hợp chất hữu
cơ tổng hợp rất phong phú. Chúng là các cao phân tử có bề mặt riêng lớn. Các gốc
hidro của chúng tạo thành lưới không gian với các nhóm chức năng trao đổi ion cố
định. Các loại nhựa tổng hợp cũng có tính chất trao đổi in.
2.2.6 Khử trùng
Mục đích của quá trình khử trùng là
đảm bảo nước thải trước khi xả vào nguồn tiếp nhận không còn vi trùng, virut
gây và truyền bệnh, khử màu , khử mùi và giảm nhu cầu oxy sinh hóa của nguồn tiếp
nhân.
Công đoạn khử trùng có thể thực hiện
sau công đoạn xử lý bậc 1 (nếu yêu cầu vệ sinh cho phép), nhưng thông thường là
sau xử lý bậc 2.
Khử trùng có nhiều phương pháp như:
dùng clo, ozon, tia cực tím,...
Thực chất của biện pháp sinh học để
xử lý nước thải là sử dụng khả năng sống và hoạt động của vi sinh vật để phân hủy
các chất bền hữu cơ trong nước thải. Chúng sử dụng các hợp chất hữu cơ và một số
chất khoáng làm nguồn dinh dưỡng và tạo năng lượng. Trong quá trình dinh dưỡng,
chúng nhận được các chất làm vật liệu để xây dựng tế bào, sinh trưởng và sinh sản
nên sinh khối được tăng lên.
Phương pháp này thường được sử dụng
để làm sạch các loại nước thải có chứa các chất hữu cơ hòa tan hoặc các chất
phân tán nhỏ, keo. Do vậy, chúng thường được dùng sau khi loại các tạp chất
phân tán thô ra khỏi nước thải.
Xử lý nước thải bằng phương pháp
sinh học gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp hiếu khí;
- Phương pháp thiếu khí;
- Phương pháp kỵ khí.
Tùy điều kiện cụ thể như địa hình,
tính chất và khối lượng nước thải, khí hậu, mặt bằng nơi cần xử lý, kinh phí
cho phép với công nghệ thích hợp, người ta sẽ chọn một trong những phương pháp
trên hay kết hợp với nhau.
2.3.1 Phương pháp hiếu khí
Nguyên tắc
Phương pháp hiếu
khí dùng để loại các chất hữu cơ dễ bị vi sinh phân hủy ra khỏi nguồn nước. Các chất
này được các loại vi sinh hiếu khí oxy hóa bằng oxy hòa tan trong nước.
Vi sinh vật
|
Vi sinh vật
|
Vi sinh vật
|
Tổng cộng: Chất hữu
cơ +
O2 H2O +
CO2 + NH3 + ...
Trong phương
pháp hiếu khí amoniac cũng được loại bỏ bằng oxy hóa nhờ vi sinh
tự dưỡng ( quá trình nitrit hóa ).
`Nitrosomonas
|
Nitrobacter
|
Vi sinh vật
|
Điều kiện
thích hợp cho quá trình là: pH= 5,5 - 9,0, oxy hòa tan lớn hơn hoặc bằng 0,5
mg/l, nhiệt độ 5-400C.
Kỹ thuật xử lý nước thải theo phương
pháp hiếu khí
- Kỹ thuật bùn hoạt tính
Đây là kỹ thuật
được sử dụng rộng rãi để xử lý nước thải đô thị và công nghiệp. Theo cách này,
nước thải được đưa ra bộ phận chắn rác, loại rác, chất rắn được lắng, bùn được
tiêu hủy và làm khô.
Một dạng cải
tiến của phương pháp bùn hoạt tính là phương pháp “thông khí tăng cường” gần
đây được sử dụng tại nhiều nước phát triển dưới tên gọi là “mương oxy hóa”.
Trong hệ thống này có thể bỏ qua các giai đọan lắng bước một và tiêu hủy bùn.
Tuy nhiên quá trình này lại cần biện pháp thông khí kéo dài với cường độ cao
hơn.
- Ao ổn định nước thải
Phương pháp xử
lý sinh học đơn giản nhất
là kỹ thuật “ổn định nước thải”. Đó là một loại
ao chứa nước trong nhiều ngày phụ thuộc vào nhiệt độ, oxy được tạo ra qua hoạt động tự nhiên của tảo trong ao. Cơ chế xử lý trong ao
ổn định chất thải bao gồm cả hai quá trình hiếu khí và kị khí.
+ Ao ổn định chất thải hiếu khí: là loại ao cạn
cỡ 0,3-0,5m được thiết kế sao cho ánh sáng mặt trời thâm nhập vào lớp nước nhiều
nhất làm phát triển tảo do hoạt động quang hợp để tạo oxy. Điều kiện không khí
bảo đảm từ mặt ao đến đáy ao.
+ Ao ổn định chất thải kỵ khí: là loại ao
sâu không cần oxy hòa tan cho hoạt động vi sinh. Ở đây các loại vi sinh kỵ khí
và vi sinh tùy nghi dùng oxy từ các hợp chất như nitrat, sunfat để oxy hóa chất
hữu cơ thành mêtan và CO2. Như vậy các ao này có khả năng tiếp nhận khối lượng
lớn chất hữu cơ và không cần quá trình quang hợp tảo. Ao ổn định chất thải tùy
nghi là loại ao hoạt động theo cả quá trình kỵ khí và hiếu khí. Ao thường sâu từ
1-2m, thích hợp cho việc phát triển tảo và các vi sinh tùy nghi. Ban ngày khi
có ánh sáng, quá trình xảy ra trong ao là hiếu khí. Ban đêm ở lớp đáy ao quá
trình chính là kỵ khí
2.3.2 Phương pháp thiếu khí
Trong điều kiện
thiếu oxy hòa tan việc khử nitrit hóa sẽ xảy ra. Oxy được giải phóng từ nitrat
sẽ oxy hóa chất hữu cơ và nitơ sẽ được tạo thành.
Vi sinh
|
Chất huux cơ
|
Trong hệ thống
xử lý theo kỹ thuật bùn hoạt tính sự khử nitrit hóa sẽ xảy ra khi không tiếp tục
thông khí. Khi đó oxy cần cho hoạt động của vi sinh giảm dần và việc
giải phóng oxy từ nitrit sẽ xảy ra. Theo nguyên tắc trên, phương pháp thiếu khí ( khử nitrit hóa ) được sử dụng để
loại nitơ ra khỏi nước thải.
2.3.3 Phương pháp kỵ khí
Phương pháp xử
lý kỵ khí dùng để loại bỏ các chất hữu cơ có trong phần cặn của
nước thải bằng vi sinh vật tùy nghi và vi sinh vật kỵ khí.
Hai cách xử lý kỵ khí thông dụng
là:
- Lên men acid
thủy phân và chuyển hóa các sản phẩm thủy phân ( như acid béo, đường ) thành
các acid và rượu mạch ngắn hơn và cuối cùng thành khí cacbonic.
- Lên men metan:
Phân hủy các chất hữu cơ thành metan ( CH4 ) và khí cacbonic ( CO2 ). Việc lên
men metan nhạy cảm với sự thay đổi pH, pH tối ưu cho quá
trình từ 6,8-7,4.
Chương 3
TÍNH TOÁN THIẾT KẾ HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC CHO CƠ SỞ GIẾT MỔ TÂN PHÚ TRUNG
3.1.1. Xác định lưu
lượng, thành phần và đặc tính
nước thải của cơ sở giết mổ gia súc Tân Phú Trung
Lưu lượng nước thải
- Lưu lượng nước thải từ các công đoạn
giết mổ;
- Lưu lượng nước thải từ hoạt động tắm
rửa gia súc chưa giết mổ;
- Lưu lượng nước thải từ hoạt động rửa
các dụng cụ giết mổ;
- Lưu lượng nước thải sinh hoạt của
công nhân.
Thành phần và đặc tính nước thải
Như đã trình bài ở chương 1, thành
phần nước thải của cơ sở giết mổ gia súc rất giàu các chất hữu cơ ( protein,
lipit, các axit amin, N-amon,...). Ngoài ra, còn có thể có vụn xương, thịt vụn,
mỡ, lông, móng, BOD5 tới 7.000 mg/l và COD tới 9.200 mg/l. Nguồn
N-amin cao, nhưng các nguồn dinh dưỡng khác lại thấp đặc là nguồn phosphat.
Hệ thống thoát nước là tập hợp các
thiết bị, mạng lưới, công trình dùng để thu gom, vận chuyển và xử lý đạt tiêu
chuyển trước khi xả vào nguồn. Căn cứ vào việc vận chuyển nước thải chung hay
riêng ta có thể có các loại hệ thống thoát nước sau:
- Hệ thống thoát nước chung;
- Hệ thống thoát nước riêng;
- Hệ thống thoát nước nửa riêng;
- Hệ thống thoát nước hỗn hợp.
Việc lựa chọn hệ thống và sơ đồ
thoát nước phụ thuộc vào:
- Tính chất phục vụ lâu dài và ổn
định của các công trình, thiết bị trên hệ thống;
- Điều kiện nơi thiết kế;
- Tính kinh tế, kĩ thuật và yêu cầu
vệ sinh môi trường.
Hệ
thống thoát nước chung
Hệ thống mà tất cả các loại nước
thải (nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất và nước mưa) được xả chung vào mạng
lưới thoát nước và dẫn đến công trình xử lý.
Ưu
điểm
- Đảm bảo tố nhất về mặt vệ sinh
vì toàn bộ nước thải đều được xử lý trước khi xả ra nguồn.
- Chiều dài mạng lưới giảm 30-40%
so với hệ thống thoát nước riêng rẽ hoàn toàn.
- Chi phí quản lý giảm 15-20% đối
với những khu xây dựng nhà cao tầng, đô thị gần nguồn nước lớn.
Nhược
điểm
- Do lượng nước mưa chảy tới trạm
bơm, trạm xử lý không điều hòa nên việc quản lý, điều phối trạm bơm và trạm xử
lý trở nên phức tạp, khó đạt hiệu quả mong muốn.
- Đường kính ống lớn, mùa khô làm
việc lãng phí, sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả.
- Vốn xây dựng bỏ ra cùng lúc quá
lớn.
Hệ
thống thoát nước riêng
Hệ thống thoát nước riêng là hệ
thống có hai hay nhiều mạng lưới riêng biệt dùng để:
- Vận chuyển nước bẩn nhiều (nước
thải sinh hoạt, nước thải sản xuất), xả vào hệ thống xử lý;
- Vận chuyển nước bẩn ít hơn (nước
mưa, nước thải quy ước sạch), xả thẳng ra nguồn.
Ưu
điểm
- Chỉ phải bơm và vận chuyển một
lượng nước thải bé hơn do đó kích thước đường ống nhỏ.
- Hiệu quả sử dụng cao.
- Vốn xây dựng có thể chia làm từng
đợt.
Nhược
điểm
- Tổng chiều dài mạng lưới lớn.
Hệ
thống thoát nước nửa riêng
Đây là hệ thống có nhiều ưu điểm,
khắc phục nhược điểm của hệ hống thoát nước riêng và chung. Hệ thống thoát nước
nửa riêng gồm hai hệ thống: (1) hệ thống thoát nước thải sinh hoạt và sản xuất;
(2) hệ thống thoát nước mưa.
Hệ thống này thu lượng nước mưa
buổi đầu tiên để xử lý trước khi xả ra nguồn bằng cách xây dựng giếng thu nước
mưa.
Hệ
thống thoát nước hỗn hợp
Hệ thống thoát nước hỗn hợp là sự
kết hợp các loại hệ thống đã nêu trên, thường dùng cho việc cải tạo, mở rộng hệ
thống sẵn có.
Cống thoát nước
Các tiết diện cống và đặc tính thủy lực
Trong thực tế xây dựng HTTN, chúng
ta thường gặp nhiều loại tiết diện cống. Việc lựa chọn tiết diện này hay tiết
diện kia làm căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng nơi mà quyết định. Nói chung
phải xuất phát từ các yêu cầu sau:
- Có khả năng chuyển tải lớn nhất;
- Có độ bền tốt dưới tác động của tải
trọng động và tĩnh;
- Giá thành xây dựng trên mét dài là
nhỏ nhất;
- Thuận tiện trong quản lý (nạo vét cống,..).
Một số loại tiết diện thường gặp:
Cùng một độ dốc và diện tích tiết
diện thì cống tròn có R lớn nhất nên khả năng chuyển lưu lượng tốt nhất. 90%
chiều dài cống dùng cống tròn.
Với cống tròn:
Chảy đầy: R=0,25d; w = pd2/4; c = pd
Không đầy: R=R'.d; w =w'.d2;
Tối đa: R=0,304d khi
h=0,813d.
Cống tròn chịu lực tốt nhất, sản xuất
hoàn thiện nhất, vì vậy nó được sử dụng tới 90% trong xây dựng cống thoát nước.
A = Qkhông đầy/Qđầy
B = vkhông đầy/vđầy
à Qkhôngđầy=A.K.
vkhông đầy = B.W.
Hình 3.2
Các thành phần thủy
lực
của dòng chảy.
|
Trong đó: W, K là tốc độ đặc trưng
và lưu lượng đặc trưng.
h/d = 0,95 à Q = Qmax (A=1,087)
h/d = 0,813 à v = vmax (B=1,16)
Công thức tính toán thủy lực
Cần xác định d, i thoả mãn yêu cầu
về độ đầy, tốc độ.... Dùng các công thức:
Trong đó:
l - Hệ số ma sát dọc đường
De - Độ nhám trương đương, cm
a2 - Hệ số, phụ thuộc độ nhám thành
ống và th/phần chất lơ lửng trong NT
(l, De, a2 tra bảng)
n - Hệ số động học nhớt.
Tùy theo công thức tính tổn thất dọc
đường được sử dụng, hệ số nhám đối với
ống mới được lấy theo bảng dưới
đây:
Các loại giếng
Giếng thường được xây dựng ngay
trên đường ống thoát nước. Bên trong giếng đường ống được thay bằng máng hở.
Tùy thuộc vào chức năng người ta chia giếng thành các loại sau:
- Giếng rửa;
- Giếng thăm;
- Giếng kiểm tra;
- Giếng thu nước mưa;
- Giếng chuyển bậc;
- Giếng đặc biệt.
Giếng rửa
Giếng rửa được xây dựng ở đầu những
đoạn ống không tính toán (vì không tính toán, Q nhỏ, dễ lắng cặn).
Giếng thăm
Giếng thăm được xây dựng trên tất hệ
thống thoát nước và ở vị trí sau đây:
-
Nơi ống có nhánh nối vào;
-
Ở vị trí có thay đổi độ dốc;
-
Ở vị trí có thay đổi đường kính;
- Ở vị trí có thay đổi hướng của
dòng chảy.
Tùy thuộc vào vị trí giếng thăm, có
thể chia thành các loại:
+ Giếng thăm thẳng
Giếng thăm thẳng được xây dựng trên
những đoạn ống thẳng có cùng d, i. Khoảng cách giữa các giếng thăm thẳng được lấy
như sau:
D (mm)
|
150
|
200-450
|
500-600
|
700-900
|
1000-1400
|
1500-2000
|
>2000
|
Khoảng cách l (m)
|
35
|
50
|
75
|
100
|
150
|
200
|
250-300
|
Khoảng cách l(m) cho phép dịch chuyển
trong 10%. Ống có d nhỏ dễ tắc.
+ Giếng ngoặt
Giếng ngoặt được xây dựng tại điểm
dòng chảy đổi hướng. Máng hở bên trong giếng ngoặt có hình cong phẳng đều có
bán kính cong bằng 2-3 lần đường kính ống, góc ngoặt ≤ 900.
+ Giếng nút
Giếng nút được xây dựng tại các điểm
gặp nhau của đường ống thoát nước. Bên trong giếng nút có một máng hở nối với
nhau bằng một ống dẫn ra và không quá 3 đường ống dẫn đến.
Giếng kiểm tra
Giếng kiểm tra được xây dựng ở vị
trí nối đường ống thoát nước của mạng lưới thoát nước tiểu khu với bên ngoài.
Giếng kiểm tra dùng để kiểm tra chế độ làm việc trước khi chảy vào mạng lưới
thoát nước.
Giếng thu nước mưa
Giếng thu nước mưa được xây dựng ở
trên đường và các diện tích xung quanh nơi có mạng lưới thoát nước mưa.
Giếng chuyển bậc
Giếng chuyển bậc được xây dựng trên
những đường ống lớn và kích thước của giếng lớn để phục vụ việc hạ thiết bị tẩy
rửa đường ống.
- Chi phí xây dựng;
- Chi phí đầu tư thiết bị;
- Chi phí điện năng;
- Chi phí nhân công;
- Chi phí sửa chữa và bảo dưỡng.
Nhiệm vụ và tổ chức quản lý mạng lưới thoát nước
Nhiệm vụ quản lý
Nhiệm vụ quản lý nhằm đảm bảo cho mạng
lưới làm việc bình thường đạt chỉ tiêu kinh tế, kỹ
thuật, cụ thể:
- Nghiệm thu mạng lưới thoát nước và
công trình đưa vào quản lý;
- Nghiên cứu và theo dõi tình hình
làm việc của mạng lưới thoát nước để đặt ra kế hoạch sửa chữa và mở rộng;
- Tẩy rửa mạng lưới thoát nước để
ngăn ngừa sự cố;
- Sửa chữa mạng lưới thoát nước;
- Theo dõi và kiểm tra việc thực hiện
các qui định sử dụng mạng lưới thoát nước của các đối tượng dùng nước và thoát
nước;
- Duyệt các bản thiết kế mạng lưới
thoát nước của các xí nhiệp, nhà máy, nhà ở và tiểu khu, đồng thời giám sát quá
trình thi công;
- Trong công tác quản lý phải lập được
các bản thống kê chi phí quản lý hệ thống thoát nước trong các năm để có tài liệu
về vận chuyển 1 m3 nước thải ra khỏi thành phố.
Tóm lại tất cả nhiệm vụ này phải thực
hiện đầy đủ và tuân theo qui định an toàn lao động.
Tổ chức quản lý
Tùy thuộc vào qui mô của mạng lưới
thoát nước mà thành lập các cơ quan quản lý: công ty,
sở, xí nghiệp, phòng, ban.
Khi chiều dài mạng lưới thoát nước
lớn hơn 100 km nên thành lập sở quản lý và có thể chia
thành các phòng: phòng quản lý mạng
lưới thoát nước; phòng quản lý về trạm xử lý nước thải;
phòng quản lý các trạm bơm thoát nước.
Nếu trong thành phố có nhiều lưu vực
thoát nước mà mỗi lưu vực có chiều dài đường ống 100
- 150 km có thể thành lập các phòng
quản lý cho mỗi khu vực.
Đối với các trạm bơm nước thải hoặc
các trạm xử lý có công suất lớn hơn 10.000 m3/ngđ thì
thành lập một xí nghiệp quản lý độc
lập.
Trong các cơ quan quản lý này nên
chia thành các bộ phận nhỏ: cung cấp thiết bị, dụng cụ,
vật liệu cho việc sửa chữa (phòng
cung ứng), ban, kho, xưởng thợ, nhà máy, bến bãi, nhà để ô
tô. Để theo dõi thi công và nghiệm
thu các công trình có ban kiến thiết, có điều kiện nên thành lập phòng thiết kế,
phòng kỹ thuật. Việc bổ nhiệm cán bộ phải do ủy ban nhân dân thành phố quyết định.
Chỉ tiêu quản lý lấy sơ bộ như sau:
- Tính trung bình cứ mỗi cán bộ phải
phụ trách 1,5 - 2 km đường ống đối với hệ thống nước
- thải đường ống lớn, từ 1,2 - 1,5 km
đối với đường ống nhỏ.
- Số cán bộ công nhân sản xuất trực
tiếp ở cơ sở lớn hơn hoặc bằng 65%. Cán bộ kỹ thuật
- nhỏ hơn hoặc bằng10%.
- Cán bộ công nhân viên phục vụ nhỏ
hơn hoặc 25%.
Giám sát thi công và nghiệm thu mạng lưới thoát nước thải
Giám Sát Thi Công
- Kiểm tra công tác thi công trên
công trường xem có đúng thiết kế hay không;
- Kiểm tra theo dõi đào hào, làm nền,
đặt ống...
- Chú ý kiểm tra: độ dốc, độ thẳng,
chất lượng của đường ống, chất lượng nền, chất lượng mối nối. Nếu cần có thể bắt
đúc mẫu để thử cường độ.
- Lập biên bản, chứng nhận sự thay đổi
so với thiết kế;
- Viết nhật ký thi công, lập hồ sơ về
thực trạng đường ống.
Nghiệm thu
Để nghiệm thu công trình phải lập
ban nghiệm thu do bên chủ quản tổ chức, thành phần gồm: cán bộ kỹ thuật, công
nhân, tài vụ...
- Xem xét kiểm tra hiện trường so với
bản thiết kế, chỉ rõ sai sót;
- Kiểm tra yêu cầu cơ bản trong việc
xây dựng mạng lưới thoát nước: độ dốc tuyến ống, độ
- thẳng, đánh giá chất lượng công
trình về mặt xây dựng;
- Tiến hành thử đường ống: nếu đường ống
tự chảy thử thủy lực, nếu đường ống có áp thử áp lực;
- Nếu đường ống thoát nước nằm dưới mực
nước ngầm từ 2 m trở lên phải thử lượng nước
- thấm vào đường ống;
- Nếu ống thoát nước nằm ở đất khô thử
lượng nước thấm từ ống ra ngoài.
Kiểm tra mạng lưới thoát nước
Việc kiểm tra nhằm bảo đảm mạng lước thoát nước làm
việc được bình thường. Công tác kiểm tra gồm:
- Kiểm tra kỹ thuận nhằm
+ Xem xét tình hình làm việc của mạng
lước qua các giếng: nước có chảy không, cặn lắng một bề dày là bao nhiêu, phát
hiện chỗ sạt lở dọc đường ống và phát hiện nhánh thoát nước nối vào mạng lưới
không hợp lý.
+ Đội kiểm tra bên ngoài gồm hai công
nhân và cấm không xuống giếng.
- Kiểm tra kỹ thuật nhằm:
+ Xác định hư hỏng của đường ống và
công trình: độ dốc, độ đầy của nước trong ống, mức độ cặn lắng, đặc tính nước
thải (t0, thành phần).
+ Biên chế gồm ba người: một thợ cả,
hai công nhân, kết quả kiểm tra ghi vào nhật ký. Nhật ký này đặt ra kế hoạch sửa
chữa và thông tắc.
Khi cần xuống giếng kiểm tra phải
tăng cường bảy người: ba chui xuống giếng còn mỗi một giếng có hai người đứng
trên để phòng cấp cứu khi nguy hiểm.
Làm sạch và thông tắc đường ống thoát nước
Mạng lưới thoát nước có Q không ổn
định à v thay đổi à lắng cặn. Do đó trong công tác quản
lý phải đặt ra công tác làm sạch và thông tắc.
Sửa chữa mạng lưới thoát nước
Trong quá trình sử dụng, mạng lưới
thoát nước bị hư hỏng. Trong khi kiểm tra hoặc tẩy rửa phát hiện phải sửa chữa
kịp thời để tránh hư hỏng to. Có hai cách:
- Sửa chữa thường xuyên;
- Sửa chữa lớn.
Sửa chữa thường xuyên
- Sửa chữa giếng: thay nắp, thang sắt
bị rỉ, thành bị lún.
- Sửa chữa thiết bị Diuke: lau dầu...
Sửa chữa lớn
- Thay thế toàn bộ mới hoặc mở rộng
giếng;
- Thay mới hoàn toàn một đoạn ống;
- Sửa chữa hoặc thay mới các thiết bị,
công trình trên mạng lưới.
Nên sửa chữa thường xuyên và trong
sửa chữa phải tuyệt đối tuân theo qui định về an toàn lao
động.
Kỹ thuật an toàn lao động trong công tác quản lý MLTN
Đặc điểm của mạng lưới thoát nước:
- Mạng lưới thoát nước đặt dưới lòng
đất do đó công trường mở ngay trên mặt đường;
- Trong MLTN bao giờ cũng có khí độc,
cháy ? thiếu oxy, có vi trùng gây bệnh.
Do đó khi mở công trình thi công phải
chú ý trang bị cho công nhân đồ dùng bảo hộ lao động
và qui định về an toàn lao động.
- Nơi có công trường phải có biển chắn
đường, cờ hiệu, đèn hiệu.
- Khi cần xuống giếng để sửa chữa hay
kiểm tra phải thử trước xem có khí độc hay không: thả đèn xuống nếu đèn bình
thường không sao, nếu lóe sáng mới tắt thì có khí cháy, đèn sáng ngọn lửa màu
xanh: có khí dầu hỏa, nếu tắt ngay do đó có khí độc nên phải thông gió rồi lại
thử lại.
- Khi làm việc ở giếng sâu phải đeo mặt
nạ và có bình oxy, xuống giếng phải có dây an toàn.
- Khi làm việc ở dưới giếng không nên
hút thuốc.
- Khi làm việc trực tiếp với nước thải
phải có ủng, găng tay, khẩu trang.
Lựa chọn công nghệ xử lý nước thải cho cơ sở giết mổ Tân Phú
Trung
Công nghệ xử lý nước thải cho
các nhà máy nói chung và nhà máy đường nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Lưu
lượng và đặc trưng của nước thải;
- Yêu
cầu nước thải sau xử lý;
- Diện
tích và vị trí đặt công trình;
- Điều
kiện kinh tế và kĩ thuật.
Đề
xuất phương án công nghệ xử lý nước thải
- Xác
định thành phần nước thải vượt quá tiêu chuẩn xả thải cho phép.
- Xác
định các phương pháp xử lý thành phần vượt tiêu chuẩn: xử lý hóa lý, sinh học…
- Ưu,
nhược điểm của mỗi phương pháp xử lý
- Sơ
đồ dây chuyền công nghệ xử lý
- Mô
tả, thuyết minh dây chuyền công nghệ xử lý.
Sau khi xác định lưu lượng và thành
phần đặc tính nước thải ta tiến hành lựa chọn tính toán cho các công trinh đơn
vị. Việc lựa chọn tính toán các công trình đơn vị cần phải xác định được các yếu
tố sau:
- Mục
đích, nhiệm vụ của công trình.
- Mô
tả công trình.
- Các
thông số tính toán.
- Tính
toán kinh tế các công trình xử lý: hạng mục công trình, thể tích, số lượng, đơn
giá.
- Tính
toán kinh tế phần máy móc, thiết bị: loại máy móc, số lượng, đơn giá.
- Tổng
chi phí đầu tư.
- Chi
phí khấu hao.
- Chi phí điện năng
- Chi phí hóa chất
- Chi phí nhân công
- Tổng chi phí
- Giá thành xử lý 1m3
nước thải.
Chương 4
HOÀN CHỈNH HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC CHO CƠ SỞ GIẾT MỔ GIA SÚC TÂN PHÚ TRUNG
4.1.
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
- Chất lượng nước đầu ra;
- Chi phí xử lý 1 m3 nước
thải;
- Yêu cầu về diện tích xây dựng;
- Yêu cầu đối với công nhân vận hành;
- Yêu cầu bảo dưỡng, sửa chữa, thay
thế thiết bị;
- Phương án giải quyết khi có sự cố.
4.2.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
- Hoàn thành thiết kê HTTN cho cơ sở giết mổ gia súc
Tân Phú Trung đúng hạn;
- Rèn luyện, trau dồi khả năng thu thập và đọc hiểu số
liệu;
- Cũng cố kiến thức chuyên ngành;
- Học hỏi kinh nghiệm thực tế trong quá trình thiết kế
và vận
hành hệ thống thoát nước;
- Tăng khả năng giao tiếp , xử lý tình huống.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh
Hùng, Nguyễn Phước Dân (2006), Xử lý nước
thải đô thị và công nghiệp – Tính toán thiết kế công trình, Nhà xuất bản
ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Trung Việt, 2010, Giáo trình mạng lưới thoát nước.
3. Trần Thị Mỹ Diệu, 2010, Giáo trình công nghệ xử lý nước thải.
4. Tiêu chuẩn quốc gia (2008), “TCXDVN 51 : 2008, Thoát nước – Mạng lưới và
công trình bên ngoài – Tiêu chuẩn thiết kế”, Hà Nội.
5. Trần Hiếu Nhuệ (2001), Cấp thoát nước, Nhà xuất bản khoa học.
Đăng nhận xét